Vai trò của môi trường đối với sự phát triển của cộng đồng là gì?
Môi trường là nơi con người sống và làm việc, là nơi tồn tại của xã hội. Môi trường con người trước hết là môi trường địa lý – điều kiện địa lý, nhưng không phải là môi trường tự nhiên thuần túy, mà phải là môi trường tự nhiên – xã hội tiêu biểu cho môi trường sống của con người, là ngôi nhà và nơi tồn tại của xã hội loài người. Môi trường con người và môi trường xã hội được chia thành môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, và thường được gọi là môi trường sinh thái.
Môi trường sinh thái là môi trường địa hóa sinh hay còn gọi là sinh quyển (sinh quyển: là vùng mà sự sống lưu thông trên trái đất, là một hệ thống nhiệt động lực học mở, bao gồm tất cả các sinh vật và sản phẩm, chất thải của cá trong các hoạt động sống của chúng, v.v. ).
Môi trường sinh thái là điều kiện có trật tự, tất yếu của sản xuất vật chất và đời sống xã hội. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình lao động, tổ chức phân công lao động xã hội, quy mô và xu hướng phát triển sản xuất. Trong lịch sử triết học, có quan niệm duy tâm và phản động là thuyết “địa lợi”, với ý kiến cho rằng điều kiện địa lý là nhân tố quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội. Đây cũng là học thuyết làm nền tảng cho học thuyết phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.
Môi trường sinh thái là một trong những vấn đề toàn cầu cấp bách và phức tạp nhất trên thế giới hiện nay. Đặc biệt là sự khan hiếm, sự cạn kiệt dần của các nguồn tài nguyên thiên nhiên nói chung. Hiện tượng “hiệu ứng nhà kính”, “lỗ thủng tầng ôzôn”, mưa axit, nhiệt độ trái đất tăng, sa mạc hóa, v.v.
Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng suy thoái hệ sinh thái như hiện nay. Trước hết, đó là sự tác động vô thức của những hạn chế về tri thức khoa học và công nghệ của con người làm phá vỡ mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên trong quá khứ và ngay cả bây giờ. Tuy nhiên, nguyên nhân quan trọng, cơ bản và sâu xa nhất của tình trạng sinh thái toàn cầu hiện nay phần lớn thuộc về các chế độ xã hội. Trong các chế độ xã hội đó phải kể đến quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Với tư cách là chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, với quy luật tự do cạnh tranh và bóc lột tối đa giá trị thặng dư, nó biến không chỉ con người mà cả thiên nhiên thành đối tượng bóc lột và bóc lột. Chủ nghĩa tư bản là lợi dụng tối đa những thành tựu của nền văn minh công nghiệp để bóc lột con người và thiên nhiên nhằm mang lại lợi nhuận tối đa trong tương lai gần, bất chấp quy luật tồn tại và phát triển của tự nhiên, tự nhiên và xã hội.
Để xây dựng mối quan hệ hài hòa thực sự giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển của xã hội nhằm phát triển bền vững, một mặt phải không ngừng nâng cao nhận thức về tự nhiên, xây dựng ý thức sinh thái, tạo cảm giác hài hòa giữa con người và Thiên nhiên. bản chất sinh thái, đặc biệt là đạo đức sinh thái phải biết kết hợp mục tiêu kinh tế với mục tiêu sinh thái; mặt khác, sự bóc lột con người dần dần cũng cần được xóa bỏ như một điều kiện khách quan và tiền đề để xây dựng lại sự cân bằng, hài hòa giữa xã hội và tự nhiên. Các vấn đề sinh thái và thực hiện phát triển bền vững là mục tiêu chiến lược của toàn nhân loại. Vì lý do này, cần có những nỗ lực hợp tác từ tất cả các quốc gia, dân tộc, mọi người và tất cả các ngành khoa học và công nghệ trên toàn thế giới.