Tiêu chuẩn nhóm là gì?

Chuẩn mực nhóm và sự hình thành các chuẩn mực nhóm là một trong những hiện tượng nhóm thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.

Chuẩn mực nhóm là hệ thống các quy tắc và yêu cầu của xã hội đối với mỗi thành viên, đóng vai trò quan trọng nhất trong việc điều chỉnh hành vi của thành viên trong các mối quan hệ và tương tác, trong giao tiếp của nhóm sau này. Chuẩn mực nhóm có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của nhóm: Chuẩn mực nhóm là cơ sở để thống nhất hành vi của các cá nhân trong nhóm và hướng các cá nhân đến việc đạt được các mục tiêu của nhóm.

Định mức nhóm tạo ra sự gắn bó giữa các thành viên và nhóm.

Định mức nhóm đảm bảo sự ổn định của trật tự nhóm.

Sự hình thành các chuẩn mực nhóm có thể được coi là sản phẩm của tương tác xã hội giữa các cá nhân trong đời sống nhóm và phản ánh nhu cầu của cộng đồng xã hội lớn hơn đối với nhóm. Vì vậy, quá trình hình thành các chuẩn mực nhóm không phải là một quá trình nội nhóm thuần túy. Một vấn đề khác cũng cần lưu ý là các nhóm chỉ hình thành các chuẩn mực liên quan đến các tình huống và hành động có ý nghĩa đối với nhóm, chứ không phải là tất cả các chuẩn mực cho mọi tình huống. Các tiêu chuẩn của nhóm được thành lập có thể được chấp nhận và tuân theo ở các mức độ khác nhau.

Có nhiều hướng nghiên cứu quy phạm nhóm, mỗi hướng tạo thành một nhánh trong nghiên cứu quy phạm nhóm. Hướng thứ nhất là nghiên cứu sự chấp nhận các chỉ tiêu hiện có ở một nhóm cá nhân vừa tham gia nhóm. Đây không phải là vấn đề của các thành viên mới tham gia nhóm. Trong trường hợp này, nó có thể liên quan đến việc nghiên cứu hiện tượng áp lực của nhóm đối với cá nhân, sự tuân thủ của cá nhân trước nhóm. Hướng thứ hai nghiên cứu quá trình hình thành các chuẩn mực nhóm và giá trị nhóm trong điều kiện có nhiều cá nhân tham gia vào nhóm cùng lúc và sự chấp nhận hoàn toàn sau đó các chuẩn mực, mục tiêu chung của nhóm từ tất cả các thành viên.

Hướng đầu tiên nổi bật với nghiên cứu về sự phụ thuộc, mà thực chất là một hiện tượng của áp lực nhóm – trong Tâm lý học xã hội nó được gọi là hiện tượng lệ thuộc (một hai). Bản thân từ “cầu nguyện” trong ngôn ngữ hàng ngày có một nội dung hoàn toàn xác định: làm theo người khác. Ở mức độ thông thường, hiện tượng cầu nguyện đã được định trước. Trong ngôn ngữ hàng ngày, khái niệm này mang một sắc thái tiêu cực. Điều này có tác động tiêu cực đến nghiên cứu, đặc biệt nếu nghiên cứu được thực hiện trong một lĩnh vực ứng dụng. Vấn đề là khái niệm chỗ ở có một nội hàm rất xấu trong chính trị như một biểu tượng của sự thỏa hiệp và ăn ở. Để phân biệt ý nghĩa cho rõ ràng, trong các tài liệu tâm lý xã hội người ta thường không đề cập đến sau lời cầu nguyện mà nói đến sự phụ thuộc hành vi hay sự lệ thuộc (phụ thuộc) với ý nghĩa nó chỉ là một đặc điểm tâm lý của vị trí cá nhân so với vị trí nhóm là mức độ tuân thủ của cá nhân đối với áp lực của nhóm. Trong các nghiên cứu gần đây, thuật ngữ “ảnh hưởng xã hội” thường được sử dụng.

Nghiện xảy ra khi có sự mâu thuẫn giữa ý kiến ​​của cá nhân và ý kiến ​​của nhóm. Các xung đột được giải quyết vì lợi ích của nhóm. Mức độ phụ thuộc – đây là mức độ tuân thủ của nhóm trong trường hợp xung đột ý kiến ​​được cá nhân coi là xung đột. Các khái niệm như “đồng thuận”, “điều kiện” có thể là những khái niệm tương tự nhau mặc dù chúng có những sắc thái khác nhau. Ví dụ, sự đồng thuận chỉ ra sự chấp nhận các định mức nhất định nhưng chấp nhận các định mức không phải do áp lực. Các khái niệm đối lập của phụ thuộc là “độc lập”, “đứng vững”, “phản kháng khi đối mặt với áp lực của nhóm”… Đôi khi khái niệm “tiêu cực” cũng được dùng để phản bác lại khái niệm phụ thuộc – khả năng chống lại áp lực của nhóm, bác bỏ các chuẩn mực của nhóm cho thấy sự độc lập quá mức. Tuy nhiên, tiêu cực như một hình thức từ chối sự lệ thuộc chỉ là bề ngoài. Trên thực tế, tiêu cực không phải là độc lập thực sự. Thay vào đó, có thể lập luận rằng đó là một trường hợp đặc biệt của sự phụ thuộc, một dạng “phụ thuộc ban đầu”: nếu cá nhân đặt ra mục tiêu thách thức ý kiến ​​của nhóm theo bất kỳ cách nào, thì cá nhân đó thực sự là yếu tố phụ thuộc vào nhóm. Vì mỗi cá nhân buộc phải phát triển hành vi chống lại nhóm của mình, phải thiết lập một vị trí trái với nhóm hoặc chuẩn mực, nghĩa là, cá nhân phụ thuộc vào ý kiến ​​của nhóm, chỉ với ý kiến ​​của nhóm. nhiều ví dụ tiêu cực, chẳng hạn như hành vi của vị thành niên). Như vậy, tương hỗ của sự phụ thuộc không phải là tiêu cực mà là độc lập và không phụ thuộc.

Sơ đồ các loại ảnh hưởng xã hội
Sơ đồ loại ảnh hưởng xã hội

Sau đó M.Douch và Djepard đề xuất một “lý thuyết phụ thuộc thông tin” với hai loại ảnh hưởng của nhóm: quy chuẩn (khi áp lực từ đa số và các thành viên chấp nhận nó như là quy chuẩn) và thông tin mang tính thông tin (khi áp lực được tạo ra từ thiểu số và các thành viên chấp nhận nó. ). như thông tin, trên cơ sở đó họ đưa ra lựa chọn của riêng mình).

Cơ chế ảnh hưởng trong hai trường hợp này là khác nhau: đa số theo nghĩa đầy đủ tạo ra một “quy chuẩn”, chi phối các ý kiến ​​cá nhân. Trong trường hợp này, cá nhân thay đổi hành vi của mình để thể hiện sự tán thành, nhưng vẫn duy trì ý kiến ​​của riêng mình. Nó rất phụ thuộc vào bên ngoài. Người thiểu số chỉ cung cấp thông tin cho cá nhân và nếu người đó tin vào thông tin đó, họ sẽ thay đổi ý kiến… tức là dường như có sự thay đổi hướng đi, chấp nhận một quan điểm khác. Trường hợp này thể hiện sự phụ thuộc bên trong. Trong nhiều trường hợp mức độ ảnh hưởng của mỗi loại trong hai loại này là khác nhau, nhưng từ góc độ hình thành nhóm, cơ chế ảnh hưởng xã hội biểu hiện dưới dạng áp lực của nhóm phải tuân theo các chuẩn mực của nó.

Leave a Reply