Cùng với thuyết Ngũ hành, học thuyết Âm dương là quan điểm vũ trụ quan quan trọng nhất của triết học Trung Hoa cổ đại. Trong khi thuyết Ngũ hành chủ yếu giải thích cấu trúc của vũ trụ thì thuyết Âm dương lại đi sâu hơn vào việc giải thích nguồn gốc và sự biến đổi của vạn vật trong thế giới. Quan điểm “âm”, “dương” được đề cập trong sách “Quốc ngữ” viết vào thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên. CN. Học thuyết Âm Dương đặc biệt được phản ánh trong tư tưởng “Kinh Dịch”, tác phẩm kinh điển vĩ đại nhất của Trung Quốc cổ đại có ý nghĩa triết học về vũ trụ và nhân sinh rất phong phú và sâu sắc. .
Theo “Kinh Dịch”, vũ trụ chuyển từ Vô cực thành Thái cực, Thái cực sinh ra Lưỡng nghi (âm dương); Sự phân đôi sinh ra Tứ tượng (Thái dương, Thiếu dương, Thái âm, Thiếu âm, tượng trưng cho 4 nguyên tố vật chất: lửa, kim, thủy, mộc); Tứ tượng sinh ra Bát quái (tám quẻ) tượng trưng cho tám yếu tố vật chất cơ bản của thế giới. Mỗi quẻ gồm ba vạch, vạch liền tượng trưng cho dương khí (-), vạch chấm tượng trưng cho khí âm (- -), lần lượt chồng lên nhau để lấy: Kiền là trời, Khôn là đất, Chấn là sấm, Tốn là gió. , Khảm là nước, Li là lửa, Cấn là núi, Đoài là đầm. Lần lượt lấy từng quẻ trong tám quẻ chồng lên nhau tạo thành 64 quẻ kép, gọi là Trung quái…, từ đó vạn vật sinh ra hòa hợp với cuộc sống và hoàn thành sự biến hóa; Nếu giải tán thì khác, còn nếu thống nhất về tôn giáo thì sẽ thành một. Mỗi quẻ kép có sáu quẻ, ba hàng trên là quẻ ngoài, ba hàng dưới là quẻ trong, tổng cộng có 384 con xúc xắc.
Trong “Kinh Dịch” có ba điểm cơ bản, một là “Dịch”, thứ hai là “Tưởng tượng”, và thứ ba là “Lời”, mô tả trạng thái luôn thay đổi của mọi vật. Nguyên nhân của sự biến đổi không ngừng của vũ trụ là do mối quan hệ và tác động giữa hai thế giới động “âm” và “dương” đối lập nhau và ràng buộc, tương tác, bổ sung cho nhau ở các cực của vũ trụ. Chính vì vậy mà “Kinh Dịch” có viết: “Cương nhu ôn nhu, dĩ sinh chi dã”, “Bình sinh chi dịch”. Điêu khắc là sự biến hóa của vạn vật được tượng trưng bằng quẻ Dịch. Các quẻ đều thể hiện những ý nghĩa nhất định về sự vật, hiện tượng gọi là “tượng”. Vì vậy, “tác phẩm điêu khắc” là bản gốc được mô hình hóa, đối tượng là cái được mô phỏng theo bản gốc khiến nó trở nên như vậy.
Chính vì vậy mà “Kinh Dịch” nói: “Dịch là tượng, tượng là giả”. Nhưng nếu chỉ dựa vào “Vọng” để biểu thị một ý thì chưa đủ để biết hết ý nghĩa, mọi điều xấu, sự vận động của “Điêu” chứa trong quẻ, nên phải có “Từ”. “Vì vậy, tượng là do thánh nhân nhìn thấy sâu trong thiên hạ, suy ra hình tướng và lấy tượng từ vật thích hợp, nên gọi là tượng; Người khôn ngoan nhìn ra hoạt động trong thiên hạ, thấy sự hội tụ và lẽ thường, thi hành lễ nghi, trình bày bằng lời nói để phân định tốt xấu, nên gọi là hào kiệt.
Theo thuyết Âm Dương, nguyên lý cao nhất và là nguồn biến thiên của mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ là mối quan hệ và tác động giữa hai lực “âm” và “dương” trong Thái Cực Quyền. Thái cực quyền là nguyên lý đầu tiên trên thế giới bao gồm hai mặt đối lập “âm” và “dương”. “Yang” ban đầu có nghĩa là ánh nắng mặt trời và những gì được bao gồm trong các tia nắng mặt trời; “Âm” là bóng tối và những gì được bao gồm trong bóng tối. Trong những phát triển sau này, “âm” và “dương” được coi là hai lực cơ bản của vũ trụ; ẩn trong Thái Cực Quyền, hiện thân và cai quản vạn vật trên đời, từ tự nhiên đến xã hội từ “thiên đạo” đến “nhân gian”, từ việc lớn đến việc rất nhỏ, từ việc đơn giản đến việc rất nhỏ. những thứ phức tạp, từ thực vật, động vật, đến con người như: trời và đất, ánh sáng và bóng tối, nóng và lạnh, lực hút và lực đẩy, sự cương cứng và mềm mại, chuyển động và tĩnh lặng, rõ ràng và mờ ảo, nặng và nhẹ, thể chất và tinh thần, đồng hóa và dị hóa, nam và nữ, vua và tôi, phụ tử và vợ chồng, tử và tử, đúng và sai, lạnh và nhiệt, khí và huyết, tạng và tạng, lá lách và dạ dày…
Trong Thái Cực Quyền, “âm” và “dương” là hai mặt, hai lực hoàn toàn bình đẳng với nhau, chúng đối lập, đẩy lùi, kìm hãm, liên hệ, thu hút và tương tác. Bên “âm” có bên “dương”, trong khí “âm” đã có khí “dương”, trong khí “dương” đã có khí “âm”. “Hệ từ của các bậc hạ” viết: “Dương quai đa âm; âm – dương ”. Từ sự đối lập, quan hệ, tác động lẫn nhau giữa hai mặt “âm” và “dương” trong một thể thống nhất, cụ thể là Thái cực người đã tạo ra trời đất, bốn mùa, nguyên tố cơ bản của vạn vật. , và sinh ra muôn vật, muôn loài phong phú và đa dạng trên thế giới; làm cho các sự vật, hiện tượng vận động, biến đổi không ngừng. Vì vậy, “Kinh Dịch” mới viết: “Dựng đạo trời là âm dương, điều khí trời đất chính là quân đoàn mềm”, “Khí mềm sinh thành”.
“Âm dương” cũng nói rằng trời có khả năng của sức mạnh âm dương, gọi là “Kiến”, làm cho vạn vật sinh sôi nảy nở. Trái đất có một đặc điểm sức mạnh âm gọi là “Kun”, khiến mọi thứ trở nên trưởng thành, và lý do dẫn đến sự khác biệt giữa nam và nữ cũng là do hai sức mạnh đó.
Theo thuyết Âm Dương, quy luật khách quan phổ quát và quan trọng chi phối sự biến đổi của mọi mặt thực tại là do sự tương tác giữa hai lực lượng vật chất cơ bản của vũ trụ trong Thái Cực Quyền. Nhưng tùy theo sự hấp thụ nhiều hay ít khí “âm” hay khí “dương”, tăng giảm mà sự biến đổi của các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ mang đặc điểm, hình dạng của vũ trụ. Kể từ đó, gia đình Âm Dương Sư tin rằng thế giới luôn vận động và mang đến một triển vọng “mới hơn và mới hơn”. Họ đưa ra lý thuyết rằng những thứ luôn thay đổi phát triển theo những hướng mới và theo những quy luật nhất định.
Tuy nhiên, họ vẫn hiểu rằng quá trình vận động chung của thế giới là một quá trình có tính chu kỳ, quy luật cơ bản của sự biến đổi của sự vật là “mới hơn” và sự thay đổi đó chỉ là một giai đoạn trong một quá trình chung có tính chất chu kỳ. Hơn nữa, trong thuyết Âm Dương vẫn còn nhiều yếu tố duy tâm thần bí, chẳng hạn như quan điểm “Thiên thời, địa lợi” cho rằng trật tự thấp kém trong xã hội là sự bắt chước của trật tự “trời đất”. Họ liên kết trật tự đẳng cấp xã hội với tự nhiên, và sau đó sử dụng những hình thức giả tạo này để chứng minh tính hợp pháp vĩnh viễn của hệ thống đẳng cấp xã hội. Các học thuyết về Âm và Dương có liên quan mật thiết đến lợi ích của giới quý tộc mới ở Trung Quốc đương thời.
Học thuyết Âm Dương là kết quả tổng hợp nhiều kinh nghiệm thực tiễn lâu đời của người Trung Hoa cổ đại. Tuy còn trực quan, ngây thơ, chất phác và có những quan điểm duy tâm, thần bí về lịch sử xã hội, nhưng các trường phái triết học âm dương đã thể hiện rõ khuynh hướng duy vật và tư duy biện chứng, tính tự phát của chúng trong quan điểm về cấu trúc và sự vận động, biến đổi của các sự vật, hiện tượng. trong tự nhiên và trong xã hội. Vì vậy, thuyết Âm Dương đã bị nhiều thế lực cầm quyền ở Trung Quốc thời phong kiến khai thác, đặc biệt là thuyết duy tâm thần bí và quan niệm lịch sử về vòng tuần hoàn Âm Dương gia đình. Các cường quốc này đã sử dụng nó như một công cụ tinh thần mạnh mẽ để duy trì và củng cố vị trí thống trị của họ đối với người Trung Quốc cổ đại.