Tấn Tử – Quan điểm duy vật và vô thần trong học thuyết thế giới

Tuân Tử (315 – 230) tên là Hương, tự là Khanh người nước Triệu. Vào thời Tấn Tử, Nho giáo, Đạo giáo, Đạo giáo đều là phổ biến; Các trường phái triết học phát triển, vừa kế thừa tư tưởng của nhau, vừa có thể chỉ trích, công kích lẫn nhau từ nhiều phía. Tấn Tử là người theo học thuyết của Nho gia, đề cao “nhân nghĩa, chính nghĩa”, “lễ nghĩa”, chủ trương “chân chính”, tôn vua, vinh nhục…, nhưng tư tưởng của ông lại trái ngược với Khổng Tử và Mạnh Tử. về đạo đức và triết học chính trị.

Sự vâng lời

Trong học thuyết thế gian, trái với tư tưởng “Thiên mệnh” của Khổng Tử, Mạnh, và “Thiên mệnh” của nhà họ Mộ, Tấn Tử đã đưa ra thế giới quan duy vật và vô thần của mình. Ông khẳng định thiên nhiên gồm có ba phần: “Trời có bốn mùa, đất có sản vật, con người có văn hóa”. Ở đâu, Trời chỉ là một bộ phận của tự nhiên, bản thân tự nhiên mới là cơ sở hình thành và biến đổi vạn vật. “Tất cả mọi vật được sinh ra với sự hài hòa của tự nhiên, và chín bằng thức ăn của Chúa. Công việc của Chúa không rõ ràng nhưng hiệu quả, vì vậy nó giống như một vị thần. Ai cũng biết cái gì hình thành, nhưng không biết cái vô hình nên gọi là Trời. Ông cho rằng, vạn vật trong thế giới tự nhiên thông qua cạnh tranh với nhau mà tiêu diệt lẫn nhau, “chặt bỏ loại không đúng, nuôi loại chính”. Như vậy, học thuyết của ông mâu thuẫn với các quan điểm viễn vông duy tâm đương thời.

Theo Tuân Tử, Đạo Trời luôn tiến hành theo một lẽ tự nhiên, không liên quan đến đạo của con người. Thần không có ý thức gì cả. Sự biến đổi của vạn vật, sự thay đổi của vũ trụ, được điều hành bởi tôn giáo của Đức Chúa Trời, không liên quan gì đến sự khôn ngoan hay hôn nhân của những kẻ thống trị. Ông quả quyết rằng: “Trời làm việc như thường, không phải vì vua Nghiêu mà canh giữ, không vì vua Kiệt mà để mất ông. Thật tốt khi đối phó với tôn giáo đó bằng sự áp bức; thật là xấu xa khi đối phó với tôn giáo bằng sự hỗn loạn. ” “Không phải vì người ta ghét cái lạnh mà trời ban cho mùa đông, cũng không phải vì người ta ngại xa mà đất ngày càng thu hẹp lại”. Thiên nhiên và quy luật biến đổi của nó không thể thay đổi theo ý muốn chủ quan của con người.

Từ đó, thầy Tú khẳng định, Trời không thể định đoạt số phận của con người. Xử lý hay lộn xộn, tốt hay xấu, là do con người thực hiện, không phải bởi Chúa. Đây là tư tưởng thể hiện rõ bản chất duy vật và vô thần trong triết học của ông, đối lập với những quan niệm mang tính định mệnh đầy màu sắc của triết học Trung Quốc đương thời.

Theo Tấn Tử, nếu con người hành động thuận theo tự nhiên thì sẽ được hạnh phúc, ngược lại sẽ gặp tai họa. Ông khuyên mọi người phải tự tin, biết làm chủ cho mình, chỉ làm việc hết sức mình trong sản xuất nông nghiệp và tiết kiệm, ông trời sẽ không để người ta nghèo, giữ gìn thân thể, sống lành mạnh. , sau đó Allah sẽ không cho phép mọi người bị ốm hoặc bệnh tật. Và nếu “cái gốc bị bỏ đi, chỉ dùng những thứ xa xỉ, thì Đức Chúa Trời không thể giàu có được. Nếu dinh dưỡng thiếu, nhất thời mà hành động không kịp, thì thần không thể bổ sung được. Đi ngược lại đường lối của Chúa, đi ngược lại tự nhiên, và làm việc ác thì Trời không thể làm điều lành được ”.

Ông nói rằng Thượng đế có thần tính của Thượng đế, và con người có thần tính của mình. Một con người, một con người hiểu đường lối của Chúa, không ỷ lại, không ỷ lại vào Chúa, mà chăm lo tốt cho công việc của mọi người. Tấn Tử viết: “Trời có thiên thời, đất làm chủ đất, người có việc riêng, gọi là có thể hợp với Trời và Đất. Sẽ là sai lầm nếu từ bỏ những gì có thể bằng Trời và Đất, mà chỉ muốn bằng Trời và Đất.

Trên quan điểm đó, ông đưa ra lý thuyết con người có thể cải tạo tự nhiên, cho rằng con người không thể chờ tự nhiên cung cấp cho mình một cách thụ động mà phải sử dụng trí tuệ và khả năng của mình, dựa vào quy luật tự nhiên mà tạo ra nhiều của cải và sản phẩm phục vụ đời sống con người. Ông chủ trương phải nâng cao việc bang giao, dạy dỗ đạo đức, để xã hội ngày càng tiến bộ và văn minh. Đó là một chức năng của con người – sánh ngang với Trời và Đất.

Vì vậy, về thế giới quan, Tấn Tử là nhà triết học duy vật cấp tiến. Ông khẳng định các quy luật tự nhiên khách quan và khắc phục những thiếu sót trong quan điểm viễn vông và định mệnh của các triết gia trước đó. Không chỉ vậy, nó xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Trên cơ sở quan điểm đó, ông đã phê phán một cách kiên quyết và chính xác các học thuyết của chủ nghĩa duy tâm tôn giáo và chủ nghĩa thần bí. Ông chỉ ra rằng những thiên tai kỳ lạ do thiên nhiên gây ra như sao băng, nhật thực, nguyệt thực,… bản thân nó chỉ là những hiện tượng tự nhiên, “đó là sự biến hóa của Trời Đất, âm dương. Bạn nghĩ nó kỳ cục thì nên, nhưng bạn không cần phải sợ hãi, nó không quyết định việc xấu xa, hạnh phúc, tốt hay xấu của một người nên không đáng sợ ”.

Theo ông Tú, những thứ do con người tạo ra như chính trị xấu xa mà người dân không thích, ruộng đất hoang hóa, người đói kém, chiến tranh và hỗn loạn, xác chết trên đường phố, lễ giáo chưa được giải quyết, v.v. không phân biệt nam nữ, nam nữ bất chính, cha con nghi kỵ nhau, vợ chồng ly tán… là khủng khiếp, đáng sợ và hủy diệt nhất ”.

Tuân Tử cho rằng những nghi lễ tôn giáo như cúng dường, cúng tế, cầu xin chỉ có thể dùng để làm phong phú và làm đẹp đời sống con người. “Một người coi anh ta như một nền văn minh, một trăm gia đình coi anh ta như một vị thần; Tốt là văn minh, xấu là thần thánh ”. Ông khẳng định rằng ma và linh hồn không thể kiểm soát số phận của con người. Với những ý tưởng này, ông xứng đáng là nhà vô thần vĩ đại của Trung Quốc cổ đại.

Trong quan điểm về vũ trụ, ông cũng đưa ra thuyết “khí”. Ông coi “khí” là nguyên tố vật chất cấu tạo nên vật chất vô cơ, thực vật, động vật và con người. Ông nói “nước lửa” chỉ có “không khí”, nhưng không có sự sống; “thực vật” có sự sống, nhưng không có tri giác; “Động vật” có tình cảm nhưng thiếu tổ chức xã hội và đạo đức; Con người không chỉ có “khí”, mà còn có cuộc sống, nhận thức và kỷ luật đạo đức, cụ thể là “chân lý”. Vì vậy, con người là sản phẩm cao nhất của tự nhiên.

Ông coi nhận thức và ý thức là những đặc điểm của con người, trong đó ông bác bỏ ý kiến ​​cho rằng mọi vật đều có linh hồn. Về mối quan hệ giữa tinh thần và cơ thể con người, ông Tú cho rằng, tình cảm, ham muốn, cơ quan giác quan và hoạt động tư duy của con người đều là những hiện tượng tự nhiên, “không cần chiếm hữu”, không phải là những sức mạnh thần bí chi phối đời sống tinh thần của con người. Ông cũng đưa ra quan điểm “thể xác đủ để khơi dậy tinh thần” (Ti thuyết). Tức là các hiện tượng tinh thần của con người đều dựa trên cơ thể con người, hình thức con người đầu tiên, sau đó mới sinh ra ý thức và tình cảm.

Trong triết học của mình, Tấn Tử cũng đã xây dựng học thuyết về nhận thức trên cơ sở chủ nghĩa duy vật. Ông khẳng định rằng con người có đủ năng lực để hiểu được sự vật bên ngoài và con người có thể biết được quy luật của sự vật khách quan. Ông coi nhận thức là tổng hợp năng lực nhận thức của con người với sự vật khách quan. Anh viết: “Cái mà người ta có thể biết được gọi là biết. Biết rằng cái gì phù hợp với mình thì gọi là tri ”.

Khi trình bày về quá trình nhận thức, Tuấn Tú khẳng định, nhận thức của con người trước hết bắt đầu từ kinh nghiệm cảm tính, và mỗi cơ quan cảm giác “thiên vị” đều có những đặc điểm riêng để có thể nhận thức được các sự kiện đối tượng bên ngoài khi tác động vào các giác quan của con người. Nhưng cảm giác được gợi lên bởi “tầm nhìn thần thánh”, chỉ dừng lại ở sự hiểu biết bề ngoài về mọi thứ. Để hiểu một điều gì đó một cách đầy đủ và sâu sắc, người ta phải dựa vào hoạt động của cơ quan tư duy – “tâm trí”. Trí óc là một chủ thể trong con người, nó có thể điều khiển các giác quan. Tâm trí còn có một khả năng đặc biệt gọi là “đại diện”, tức là khả năng tổng hợp, phân tích, trừu tượng hóa và khái quát hóa những cảm giác do các khả năng mang lại, để xem những điểm chung và đưa nó cho tâm trí. là một cái tên, một cái tên quy ước với một ý nghĩa cụ thể.

Như vậy, người ta sẽ phân biệt được tính đồng nhất của sự vật, hay loại sự vật. Chỉ dựa vào tác dụng lý luận của tư duy, chúng ta mới có thể phân biệt hay phán đoán những thuộc tính của sự vật do các giác quan mang lại. Nhưng hoạt động của cái “trí” nhất thiết phải lấy hoạt động của cái “thiêng” làm cơ sở. ở đây ông đề cập chính xác đến mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính trong các quá trình nhận thức.

Leave a Reply