Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quyết định sự vận động và phát triển của các phương thức sản xuất trong lịch sử. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất có tác dụng biện chứng, ở đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, còn quan hệ sản xuất ảnh hưởng to lớn đến quan hệ sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất tương ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì chúng sẽ khuyến khích sự phát triển của lực lượng sản xuất; mặt khác nếu không phù hợp sẽ cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển xã hội.
1. Vai trò quyết định lực lượng sản xuất trong quan hệ sản xuất
Sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất bắt đầu từ sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất mang tính năng động, cách mạng, không ngừng vận động và phát triển; Quan hệ sản xuất là một hình thái xã hội tương đối ổn định của quá trình sản xuất. Trong sự vận động của các mâu thuẫn biện chứng, lực lượng sản xuất phá vỡ quan hệ sản xuất. Cơ sở khách quan hình thành sự vận động và phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất là tính biện chứng giữa sản xuất và nhu cầu của con người; vì tính năng động và tính cách mạng của sự phát triển công cụ; vì vai trò của người lao động là chủ thể sáng tạo và lực lượng sản xuất hàng đầu; vì sự kế thừa khách quan của sự phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình lịch sử.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là điều kiện khách quan của sản xuất. Lực lượng sản xuất tiếp tục vận động và phát triển sẽ mâu thuẫn với tính “đứng yên” tương đối của các quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất chuyển từ “hình thức thích hợp”, “tạo địa bàn” cho lực lượng sản xuất phát triển sang “dây chuyền” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Yêu cầu tất yếu của nền sản xuất xã hội là xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới theo trình độ của lực lượng sản xuất được phát triển. C.Mác đã bày tỏ suy nghĩ của mình về vai trò của sự phát triển của lực lượng sản xuất đối với sự thay đổi của các quan hệ xã hội: “Các quan hệ xã hội liên quan chặt chẽ đến lực lượng sản xuất. Sở hữu lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất, và bằng cách thay đổi phương thức sản xuất, phương tiện kiếm sống, nó làm thay đổi tất cả các quan hệ xã hội của mình. Nhà máy điều khiển bằng tay đã hình thành xã hội quý ông và xã hội tư bản công nghiệp được xay bằng hơi nước. ”
Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất mới trong lịch sử, quyết định nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất. Con người với năng lực nhận thức và năng lực thực tiễn của mình, phát hiện và giải quyết các mâu thuẫn, xây dựng các kết quả mới, đưa quá trình phát triển lên một trình độ cao hơn.
2. Sự trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Do quan hệ sản xuất hợp thành hình thái xã hội tương đối độc lập của quá trình sản xuất nên chúng tác động mạnh mẽ trở lại lực lượng sản xuất. Vai trò của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất được thực hiện thông qua sự phù hợp biện chứng giữa quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là yêu cầu khách quan của nền sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là điều kiện trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất và “tạo ra chỗ đứng thích hợp” cho lực lượng sản xuất phát triển. Sự phù hợp bao gồm sự kết hợp đúng đắn các yếu tố tạo nên lực lượng sản xuất; sự kết hợp đúng đắn của các yếu tố
là quan hệ sản xuất; sự kết hợp đúng đắn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Tính phù hợp bao gồm việc tạo ra các điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp người lao động và tư liệu sản xuất; tạo điều kiện hợp lý để người lao động tự do sáng tạo trong sản xuất, được hưởng những phần thưởng vật chất và tinh thần trong công việc.
Nếu quan hệ sản xuất “đi sau” hoặc “đi trước” trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là không đúng. Sự phù hợp không có nghĩa là đồng nhất tuyệt đối, mà chỉ là tương đối, ở những nơi có sự khác biệt. Sự phù hợp xuất hiện trong vận động phát triển, một quá trình thường tạo ra mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quyết định mục tiêu và xu hướng phát triển của nền sản xuất xã hội; thiết lập hệ thống động lực khuyến khích phát triển sản xuất; mang lại năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng, đó là khuyến khích hoặc cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì cơ sở sản xuất sẽ phát triển đúng hướng, quy mô sản xuất được mở rộng; các thành tựu khoa học và công nghệ được ứng dụng nhanh chóng; Người lao động hăng hái, hăng say lao động sản xuất, quyền lợi của người lao động được đảm bảo, nhân lực sản xuất được phát huy. Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp sẽ cản trở, thậm chí tiêu diệt lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ xảy ra trong những giới hạn nhất định, trong những điều kiện nhất định.
Trạng thái động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tiến từ phù hợp đến không phù hợp rồi đến mức độ phù hợp mới cao hơn. Con người với năng lực nhận thức và năng lực thực tiễn của mình, phát hiện và giải quyết các mâu thuẫn, xây dựng các kết quả mới, đưa quá trình phát triển lên một trình độ cao hơn. C. Mác khẳng định; “Ở một giai đoạn phát triển nhất định của mình, lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có … trong đó lực lượng sản xuất đã phát triển cho đến nay. Từ những hình thức của lực lượng sản xuất được phát triển, những quan hệ này trở thành dây chuyền của lực lượng sản xuất. Sau đó bắt đầu kỷ nguyên cách mạng xã hội.
Quy luật quan hệ sản xuất theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến, ảnh hưởng xuyên suốt quá trình lịch sử loài người. Sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất làm cho lịch sử xã hội loài người là lịch sử của các phương thức sản xuất nối tiếp nhau, từ phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy đến phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, phương thức sản xuất phong kiến, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. sản xuất và phát triển lên phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, do những điều kiện khách quan và chủ quan, quy luật quan hệ sản xuất theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tác động đặc trưng của nó. của sở hữu công cộng đối với tư liệu sản xuất chính. Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa xóa bỏ dần các mặt đối kháng xã hội. Sự phù hợp không xảy ra một cách “tự động”, đòi hỏi sự tự giác cao trong việc nhận thức và áp dụng các quy tắc. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội chủ nghĩa có thể bị “hư hỏng” do nhận thức và vận dụng không đúng.
3. Ý nghĩa trong đời sống xã hội
Quy luật quan hệ sản xuất theo giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Về thực tiễn, phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất, trước hết là phát triển sức lao động và tư liệu lao động. Muốn xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, việc hình thành quan hệ sản xuất mới phải căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không phải do mệnh lệnh hành chính hay mọi quyết định từ trên xuống dưới mà phải xuất phát từ nhu cầu kinh tế. , những điều kiện khách quan của quy luật kinh tế, chống lại sự tùy tiện, chủ quan, duy tâm, tự nguyện.
Hiểu đúng những quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nắm vững và vận dụng quan điểm, đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc về đường lối đổi mới tư tưởng kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình cách mạng Việt Nam, nhất là công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến việc nhận thức và vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật này, có tác dụng to lớn trong thực tiễn. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng hợp, là sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện nay vào phát triển kinh tế ở Việt Nam.