Trong triết học Hy Lạp cổ đại, quan niệm duy vật chất phác coi con người như một tiểu vũ trụ thu nhỏ, cho rằng “con người là thước đo của vũ trụ” (Protago), hay “con người là bản thể cao nhất” của bậc thang cao nhất của vũ trụ ”(Arixtot). Mặt khác, theo chủ nghĩa duy tâm khách quan của Platon, con người chỉ là ảo ảnh từ thế giới của những “ý tưởng”, v.v. Tuy nhiên, triết học Hy Lạp cổ đại lúc đầu đã phân biệt con người với tự nhiên, tất nhiên, nhưng cũng chỉ là sự hiểu biết bề ngoài của con người.
Triết học thời Trung cổ coi con người là sản phẩm của Thượng đế và đặc trưng bản chất con người là đoàn kết nguyên chất – đoàn kết có đạo đức. Bởi vì, theo họ, bản chất con người là do lực lượng siêu nhiên hoặc do suy nghĩ, ý thức, người khác quyết định.
Triết học Phục hưng – thời kỳ cận đại chủ yếu đề cao vai trò của trí tuệ và lý tính của con người, coi con người là thực thể trí tuệ. Đó là một trong những yếu tố quan trọng, để giải phóng con người khỏi ách nô lệ của chế độ thần quyền tôn giáo thời trung cổ, nêu cao tư tưởng giải phóng con người, tuy nhiên con người cũng đề cao cá nhân mà xem nhẹ khía cạnh xã hội và không nhận thức hết bản chất con người trong mối quan hệ. giữa các khía cạnh sinh học và xã hội.
Trong triết học cổ điển Đức, Hegel nghiên cứu bản chất con người thông qua các quá trình tư duy và khái quát những quy luật cơ bản của quá trình đó, được trình bày một cách hệ thống, nhằm khẳng định vai trò của chủ thể con người trong lịch sử, đồng thời là kết quả của lịch sử. sự phát triển. Tuy nhiên, Hegel coi “ý niệm tuyệt đối” có vai trò quyết định đối với con người. Vì vậy, về bản chất, Hegel coi con người như một sản phẩm thuần túy của những “ý tưởng tuyệt đối”.
Quan niệm duy vật của Feuerbach đã khắc phục những hạn chế của Hegel trong việc hy vọng khám phá ra bản chất thực sự của con người. Tuy nhiên, khi phê phán quan điểm duy tâm của Hegel, Febach đã mắc sai lầm khi tuyệt đối hóa mặt sinh học của con người, hoặc tách nó ra khỏi các quan hệ xã hội thực tế, hoặc kết nối bản chất con người với bản chất con người. dân tộc đặc điểm của ai là đạo đức, tôn giáo và cảm xúc của tình yêu. Mặc dù, ông khẳng định rằng con người là sản phẩm của sự phát triển của tự nhiên và con người và thiên nhiên là một thực thể, v.v.
Cho nên, Trong lịch sử triết học trước Mác, quan niệm về con người thực chất là quan niệm duy tâm, tôn giáo, siêu hình. Mặc dù, triết học duy vật trước Mác coi con người là thực thể tự nhiên – thực thể xã hội. Nhưng chúng cũng không nằm ngoài tính siêu hình và thậm chí là duy tâm. Đó là vì họ đã đặc trưng hóa bản chất con người theo khuynh hướng tuyệt đối hóa các thuộc tính tự nhiên hoặc xã hội, không phụ thuộc vào vai trò của thực tiễn xã hội.
Trong hệ thống thế giới quan tôn giáo, con người được coi là một thực thể kép, là sự kết hợp giữa tinh thần và thể chất. Nơi linh hồn con người tồn tại vĩnh hằng và tuyệt đối. Tuy nhiên, một số trường phái triết học vẫn có những thành tựu trong việc phân tích và quan sát con người, đề cao lý trí, xác lập các giá trị nhân học để hướng con người tới tự do. Chúng cũng là những tiền đề có ý nghĩa cho việc hình thành những tư tưởng về con người trong triết học Mác.