Phép biện chứng giản đơn trong triết học Lão Tử

Phép biện chứng của Lão Tử là sự phát triển tư tưởng về sự thay đổi trong “Kinh Dịch”. Theo ông, cả thế giới là một quá trình chuyển đổi lớn, không ngừng. Chữ Đạo Trường trong chữ Đạo thường đồng nghĩa với Dịch – là sự biến hóa, biến hóa của sự vật. Trong sự vận động đó, các phép biến hình đều mang tính chất tương đối, chỉ là một khâu trong dòng chuyển động vô tận. Sự vận động của vạn vật không hỗn loạn mà tuân theo quy luật tất yếu của tự nhiên. Đây là quy luật nghiêm minh, không có gì nằm ngoài quy luật đó, kể cả trời, đất, thần linh.

Toàn bộ vũ trụ, theo Lão Tử, được điều hành bởi hai quy luật phổ quát: quy luật cân bằng và quy luật đầu hàng. Quy luật cân bằng là giữ cho chuyển động ở trạng thái cân bằng không cho phép bất cứ điều gì quá mức, thiên lệch hoặc bất cập. Những gì mất đi sẽ được lấp đầy, những gì quanh co sẽ ngay thẳng, những gì lỏng lẻo sẽ dễ dàng lấp đầy, những gì cũ kỹ sẽ được làm mới. Đó là Đạo của Tự nhiên.

Biểu tượng của quy luật cân bằng là nước. Nước có tính chất hiền hòa, gặp chỗ trống thì chảy vào, khi đầy thì chảy ra, ở chỗ cao tìm chỗ thấp. Vì vậy, nó chảy ngày đêm không ngừng, dâng lên trở thành cơn mưa thấm vào vạn vật, đổ xuống sông suối tưới mát muôn loài.

Nhờ quy luật cân bằng mà vạn vật tồn tại, biến đổi không ngừng theo một trật tự tự nhiên nhất định. Quy luật cân bằng chống lại tất cả những gì đi ngược lại sự hài hòa của tự nhiên. Để chống lại sức mạnh, thường dùng sự dịu dàng để thắng, yếu đuối để thắng sức mạnh: “Kiễng gót chân không đứng vững. Nếu bạn tách đôi chân của bạn, bạn sẽ không thể đi được. Nếu bạn tự cho mình là sáng sủa, bạn không thông minh. Nếu bạn nghĩ mình đúng, điều đó không gây chói mắt. ”

Theo Lão Tử, trong quá trình vận động và biến đổi, xu hướng tất yếu của vạn vật là trở về với Đạo, trở về với không gian tĩnh lặng theo quy luật “thiên biến vạn hóa”. Lão Tử gọi luật là “trở về Đạo”.

Quy luật “phản nghịch” của Lão Tử có hai nghĩa:

Thuận nghịch có nghĩa là vạn vật biến đổi và trao đổi với nhau theo một chu kỳ nhịp nhàng đều đặn, tuần tự và vô tận giống như bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông thay đổi, xen kẽ nhau. Đây là một quy luật bất biến và không thể thay đổi của tự nhiên. Vạn vật “mờ mịt”, lúc sinh ra, lúc chết, lúc yếu, lúc mạnh, lúc đầy, lúc thấp… đều chịu tác động của quy luật phản phúc, hễ “Âm sinh thì cực sinh”. Thì Âm sinh ra ”. , trăng tròn rồi trăng tàn…

Đầu hàng cũng có nghĩa là trở về với Đạo, một cách tự nhiên, không cần hành động. Trở lại Đạo của Tự nhiên. Không hành động là trở về bản chất của chính nó, không thừa, không thiếu. Vì vậy, “không làm gì, nhưng không làm gì cả”. Trở về với tự nhiên, vô điều kiện và tĩnh lặng là điều tất yếu vì: “Nặng là gốc của ánh, tĩnh là gốc của động”. “Đến tột cùng, không gian vẫn phải vững chắc trong im lặng.” “Tất cả mọi vật đều được sinh ra cùng nhau; chúng tôi thấy nó trở lại như ban đầu ”. Ôi, mọi loài côn trùng đều trở về cội nguồn.

Theo Lão Tử, nếu bạn không trở lại cảnh giới, Đạo không điều hòa, và cố tình can thiệp vào cảnh giới của tạo vật, bạn sẽ gặp thất bại: “Trời không sáng thì bể. Mặt đất không ổn định sẽ rơi xuống. Các hang động không được lấp đầy sẽ khô cạn. Những điều không sống sẽ đến hồi kết thúc. ”

Vì vậy, trở về với Đạo có nghĩa là hòa nhập và đồng nhất với cái tĩnh lặng, bình dị, mộc mạc, tự nhiên của Đạo. Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta đã giữ Đạo từ lâu đời: “Trời là một, muôn trùng. Vùng đất là một yên tĩnh. Chúa là một trong những linh hồn đó. Các hang động là một trong những đầy đủ. Tất cả mọi thứ sống như một. ”

Theo Lão Tử, vạn vật biến động, thay đổi đều xuất phát từ bản thân sự vật. Mọi sự vật đều là sự thống nhất của hai mặt đối lập, vừa hòa hợp vừa mâu thuẫn, vừa đối lập vừa có mối quan hệ với nhau, bổ sung, tất yếu. Lão Tử viết: “Trong vạn vật, không có vật gì không mang âm, có dương hòa lẫn với nhau”.

Đúng như “Kinh Dịch” đã nói: “Vạn vật sinh thành, bão tố”. Lão Tử cho rằng hai sự vật đối lập trong sự vật vừa dung hòa, vừa bao hàm nhưng đồng thời cũng mâu thuẫn với nhau, và giữa mâu thuẫn này, chúng luôn tuân theo quy luật cân bằng để hài hòa với nhau (xung đột là để căn chỉnh). ). Như vậy, tư tưởng về mâu thuẫn biện chứng đã đạt đến trình độ khá sâu sắc và là trọng tâm của phép biện chứng của Lão Tử. Ông đã chứng minh đúng bản chất của mọi mâu thuẫn – cụ thể là mối quan hệ biện chứng giữa vận động và im lặng giữa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Vì mối quan hệ biện chứng của các mặt đối lập là nguồn gốc của mọi sự vận động và biến đổi. Nhưng các mặt đối lập trong các sự vật, hiện tượng có thể chuyển hóa thành các mặt khác.

Theo ông, trong một chu kỳ phát triển cực đoan, họ sẽ biến thành người đối lập với mình. Đó là lý do “Gió mạnh không thổi được cả buổi sáng, mưa to không rơi cả ngày”, “Đau thương là nền tảng của hạnh phúc, hạnh phúc là bảo vệ khỏi tai họa”…

Tuy nhiên, theo Lão Tử, các cuộc đấu tranh và biến đổi đối lập không theo chiều hướng phát triển và nảy sinh mới, mà tuân theo chu kỳ của quy luật “phản ứng”. Hơn nữa, Lão Tử không chủ trương giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh đối lập mà ông chủ trương lấy cái tĩnh, cái không điều hòa, cái hài hòa để tạo ra sự chuyển hóa. Sự chuyển hóa đối lập ở Lão Tử là sự hài hòa theo quy luật quân bình.

Như vậy, chính hai quy luật chung của Đạo gia đã làm cho phép biện chứng của Lão Tử mất đi sức sống và trở nên máy móc, lặp đi lặp lại, vòng vo.

Lão Tử còn xây dựng hàng loạt mâu thuẫn trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội, đạo đức, quan hệ xã hội, được giải quyết theo chủ trương dung hòa, thậm chí được đề cao như một nghệ thuật sống như: chuyển động và im lặng, nóng và lạnh. , thấp và cao, dịu dàng và bạo lực, tồn tại và không tồn tại, tồn tại và mất đi, sống và trẻ, thiện và ác, tốt và xấu, lên và xuống… Các mặt đối lập song hành với nhau, vạn vật sẽ trở nên mới mẻ và hài hòa, và khi phát triển đến đỉnh cao, chúng sẽ biến thành đối lập với chính mình. Do đó Lão Tử viết: “Muốn thu thì phải mở; Nếu bạn muốn suy yếu, hãy tăng cường nó, nếu bạn muốn khỏi nó, hãy vui mừng, nếu bạn muốn có được nó, hãy cho nó. Gọi là thắng sâu mà sáng, nhẹ nhàng mà thắng khó… ”.

Phép biện chứng của Lão Tử tuy còn ở mức độ hồn nhiên, giản dị, trực quan và cảm tính, nhưng đã trình bày được nhiều tư tưởng rất dày đặc, nhưng sâu sắc về vận động, quy luật và mâu thuẫn. Điều đáng tiếc là thực chất của phép biện chứng là sự phát triển, Lão Tử không hề đề cập đến, thậm chí khi vận dụng nó vào đời sống xã hội, Người còn lên án nó là nguồn gốc của mọi đau khổ và bất công.

Leave a Reply