Nội dung của tư tưởng yêu nước Việt Nam

Chủ nghĩa yêu nước là tư tưởng xuyên suốt trong lịch sử phát triển của tư tưởng Việt Nam nói chung và tư tưởng triết học Việt Nam nói riêng. Hệ tư tưởng đó là truyền thống, ý chí, tình cảm xã hội về độc lập dân tộc, về một quốc gia có chủ quyền, về chiến lược và sách lược đánh thắng kẻ thù, về nhận thức và vận dụng quy luật chiến tranh, đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, – đó là lý luận. vấn đề chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Nội dung cơ bản của tư tưởng yêu nước được thể hiện trên các phương diện:

Nhận thức về một quốc gia và dân tộc độc lập

Sự hình thành cộng đồng người Việt, dân tộc Việt Nam cũng là một tất yếu khách quan của quá trình phát triển lịch sử của xã hội Việt Nam. Vì vậy, dân tộc Việt Nam cũng được hình thành từ thị tộc này sang bộ tộc khác và quốc gia. Do điều kiện lịch sử hình thành và phát triển của cộng đồng người Việt, người Việt đã phải thường xuyên đấu tranh với các cộng đồng khác để tấn công, đặc biệt là chống lại cộng đồng người Hán lớn hơn. , mạnh hơn để thôn tính. Ý thức dân tộc và độc lập dân tộc của người Việt Nam cũng là một quá trình.

Trước hết, nó bắt đầu từ cuộc đấu tranh tự vệ của cộng đồng người Việt và câu hỏi thường được đặt ra đối với Việt Nam là làm thế nào để chứng minh rằng cộng đồng người Việt khác với cộng đồng người Hán và bình đẳng với cộng đồng người Việt. Tư tưởng được trình bày như định mệnh (quan điểm của Lý Thường Kiệt), sự thật rõ ràng và không thể chối cãi về sự khác biệt giữa Việt và Hán về lãnh thổ, kinh tế, ngôn ngữ, phong tục tập quán.

Trên lĩnh vực nhận thức luận, nhận thức về một quốc gia, dân tộc độc lập đã đặt ra cho các nhà tư tưởng xã hội phong kiến ​​Việt Nam nhiệm vụ phải nghiên cứu sâu, rộng và toàn diện hơn về xã hội Việt Nam. , vai trò của người dân Việt Nam. Nguyễn Trãi là người đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử này. Lý luận của Nguyễn Trãi đã đạt đến đỉnh cao của quan niệm dân tộc và độc lập dân tộc dưới thời phong kiến ​​Việt Nam, nhưng những lý luận trên tỏ ra bất lực khi giặc Pháp xâm lược Việt Nam. Phải hơn nửa thế kỷ sau – tức là vào những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã phát minh ra một lý thuyết mới về an toàn quốc gia và ông đã làm cho khái niệm quốc gia và nhà nước độc lập có một cảm giác mới, bình đẳng.

Khái niệm các nước độc lập, bình đẳng với phương Bắc

Trước thời Bắc thuộc, Việt Nam có nhà nước Văn Lang và Âu Lạc. Trong thời kỳ Bắc thuộc, các khu vực bộ lạc của Việt Nam đã trở thành một bộ phận của người Hán. Việt Nam chống lại ách thống trị của nhà Hán để khẳng định quyền xây dựng một quốc gia dân tộc độc lập ngang hàng với phương Bắc. Vì vậy, vấn đề Quốc huy, Thủ đô, Danh hiệu Đế quốc, Tên thời đại là yêu cầu khách quan của lịch sử phát triển và dựng nước của dân tộc Việt Nam.

Vì vậy, trong mỗi thời kỳ lịch sử, sau khi giành được độc lập, các triều đại phong kiến ​​Việt Nam đều đáp ứng được yêu cầu trên. Chẳng hạn, Lý Bí đã bỏ những tên gọi do chế độ phong kiến ​​phương Bắc đặt ra ở nước ta như: Giao Chỉ; “Giao Châu”; “Nam Giao”, v.v. một cái tên liên quan đến sự phụ thuộc vào phương Bắc, và gọi nước này là Vạn Xuân. Sau đó, nhà Đinh gọi là Đại Cồ Việt, nhà Lý gọi là Đại Việt… Tên của nguyên thủ quốc gia cũng được đổi từ Vương thành Đế, từ Trưng Vương thành Lý Nam Đế (Hoàng Đế). Kinh đô cũng dời từ Cổ Loa ra Hoa Lư, rồi từ Hoa Lư ra Thăng Long. Như vậy, với tư cách là thời kỳ đầu độc lập, Việt Nam – nhà nước phong kiến ​​nói chung từ Quốc hiệu, Quốc hiệu, đến Niên hiệu, Kinh đô, v.v., đều đã được nhận thức đầy đủ và ở đó mỗi danh xưng là một tư thế tự cường, độc lập và độc lập của dân tộc.

Nhận thức về nguồn gốc động lực của chiến tranh cứu nước và bảo vệ Quốc gia.

Lý thuyết về một quốc gia độc lập và một quốc gia có chủ quyền là một vũ khí quan trọng trong

Lịch sử dựng nước của Việt Nam, bên cạnh vấn đề khoa học và nghệ thuật chiến tranh bảo vệ đất nước phải được hình thành và phát triển cũng là một nhu cầu cấp thiết của quá trình tìm hiểu nguồn gốc loài vật. và bảo vệ đất nước.

Vấn đề khái quát từ thực tế chiến đấu, cô đọng kinh nghiệm thực tiễn thành lý luận để phổ biến rộng rãi trong xã hội là yêu cầu khách quan của các nhà lãnh đạo chiến tranh đối với nhà nước trong lịch sử dân tộc. Điều đó khẳng định ông cha ta đã coi trọng sức mạnh của xã hội và tiến sức mạnh đó là nhằm gắn lợi ích của quốc gia với lợi ích của dân tộc, lợi ích của cả dòng họ. Tư tưởng ấy đã được Trần Quốc Tuấn gợi lên: “Trên dưới là một, lòng dân không chia cắt”, bởi “Ta vua tôi với nhau, anh em hòa thuận, bang giao, giặc giã”. . Nguyễn Trãi cũng viết: “Quân tử thủy chung, trên dưới đều như con”. Và khi đặt chân đến Hồ Chí Minh đã nêu rõ tôn chỉ: “Đoàn kết, đại đoàn kết – Thành công, thành công rực rỡ”.

Trong lịch sử dựng nước dưới nhiều hình thức khác nhau, ông cha ta đều có quan điểm tích cực coi trọng vai trò chủ thể của nhân dân. Đó là suy nghĩ của Lý Công Uẩn khi ông khẳng định: “Trên dưới tuân theo mệnh lệnh của trời, dưới thuận theo ý dân, nếu thuận thì thay đổi”, hay ở Nguyễn Trãi: “Sự nghiệp của con người là lẽ sống trong hòa bình ”, v.v. Ý tưởng đã trở thành cơ sở của tư duy nhân đạo, cách tiếp cận nhân ái, các bước để hạn chế xung đột giai cấp trong xã hội và hướng tới sự thịnh vượng chung của quốc gia, nhà nước. Sự phát triển của những tư tưởng này đã đạt đến một trình độ cao hơn và mang phẩm chất của một thời đại mới cho Hồ Chí Minh.

Leave a Reply