Âm dương – Ngũ hành là hai phạm trù cơ bản trong tư tưởng triết học Trung Hoa cổ đại, là khái niệm khái quát và trừu tượng đầu tiên trong quan niệm cổ xưa về sự sinh thành và biến đổi của vũ trụ. Đó cũng là một bước tiến bộ trong việc định hình quan niệm duy vật và biện chứng về vũ trụ của người Trung Quốc cổ đại, thoát khỏi sự kiểm soát tư tưởng do quan niệm truyền thống về Thần và Satan mang lại.
Thuyết âm dương
“Yang”, ban đầu có nghĩa là ánh nắng mặt trời, hoặc thuộc về ánh nắng và ánh sáng, “Âm” có nghĩa là thiếu ánh sáng mặt trời, tức là bóng râm hoặc bóng tối. Khi đó, Âm và Dương được coi là hai chất khí; hai nguyên lý hoặc lực (cực đoan) của vũ trụ: thể hiện nam tính, hoạt động nóng, nhẹ, kín đáo, dày đặc, v.v. cụ thể là Dương; nữ, thụ động, lạnh lùng, bóng tối, ẩm ướt, mềm mại, v.v. cụ thể là Âm. Chính sự tương tác giữa chúng là nguồn gốc của vạn vật. Sau đó trong Kinh Dịch, lịch trình thay đổi của vũ trụ đã được thêm vào, bắt đầu bằng tai Chi. Sinh ra từ Thái cực quyền Nghi ngờ (Âm – Dương), thì bốn bức tượng, đã sẵn sàng Tám con quái vật. Cho nên, nguồn gốc của vũ trụ là Thái Cực, không phải Âm – Dương. Hầu hết các học giả khi đó đều cho rằng Thái cực là khí “Tiên thiên”, trong đó có hai nguyên tố tự nhiên đối lập là Âm – Dương. Đây là một quan niệm tiên tiến hơn so với quan niệm cũ về Thượng đế là người cai trị vũ trụ từ quan niệm cổ xưa về nguồn gốc của vũ trụ.
Hai lực Âm và Dương không tồn tại riêng lẻ mà thống nhất và ức chế lẫn nhau, mâu thuẫn theo nguyên tắc sau:
- Âm dương hợp nhất tạo thành Thái cực. Nguyên tắc này nói lên sự chính trực, chỉnh thể, cân bằng và đa dạng của người độc thân. Bản thân điều đó bao hàm ý niệm về sự thống nhất giữa cái không thay đổi và cái biến đổi trong vũ trụ.
- Trong Âm có Dương và ngược lại. Nguyên lý này không chỉ nói lên sự thống nhất của Âm – Dương, mà trong sự thống nhất đó là sự che dấu những mặt đối lập của mâu thuẫn trong sự chuyển hóa Âm – Dương của Thái cực quyền.
Các nguyên lý trên được khái quát thành một vòng tròn khép kín, có hai hình đen trắng tượng trưng cho Âm và Dương, hai hình thái này tách biệt và đối lập nhau nhưng lại bao trùm và quấn lấy nhau. Cụ thể, hình ảnh màu đen nổi bật có các chấm trắng, và ngược lại, hình ảnh màu trắng nổi bật cũng có các chấm đen; Trường hợp hình đen nổi bật, hình ảnh trắng thu nhỏ, và nơi hình ảnh trắng nổi bật, hình ảnh đen thu nhỏ. Hình cho thấy: Âm tăng thì Dương giảm, ngược lại Dương tăng thì Âm giảm; Khi Âm đạt đến cực điểm thì Dương (điểm sáng) xuất hiện, và khi Dương đạt đến cực điểm thì Âm (chấm đen) xuất hiện.
Để giải thích lịch trình tiến hóa trong vũ trụ, người Trung Hoa cổ đại đã khái quát logic của thuyết tất định: Thái Cực sinh ra Lưỡng nghi (Âm – Dương), và Lưỡng nghi sinh Tứ tượng. [Thái Dương – Thiếu Âm – Thiếu Dương – Thiếu Âm – Thái Âm] và Bốn bức tượng Bát quái [càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài]Bái tướng sinh vạn vật (vô vi, vô tận).
Tư tưởng triết học Âm – Dương đạt đến mức hệ thống hoàn chỉnh trong Kinh Dịch. Bản chất của Kinh Dịch là Dịch học, Điêu khắc và Ngôn từ với nguyên lý Âm và Dương. Trong đó, “Dịch” là sự biến đổi của mọi thứ. Quy luật biến đổi từ không rõ ràng → rõ ràng → sâu lắng → mãnh liệt → cao trào → ngược lại. “Điêu” là chỉ sự biến hóa của vạn vật được thể hiện qua quẻ. Tám quẻ và ba vạch thể hiện những ý nghĩa nhất định của sự vật, hiện tượng gọi là “tượng”. “Từ” là một biểu hiện của “Thần tượng” về mặt thiện hay ác, động hay tĩnh. Nguyên lý Âm Dương coi sự biến đổi Âm – Dương trong Thái Cực Quyền là nguyên nhân cơ bản của sự thay đổi trong vũ trụ.
Học thuyết Ngũ hành
Từ “ngũ hành” có nghĩa là năm yếu tố: Kim loại – Gỗ – Nước – Lửa – Đất. Nhưng chúng ta không nên coi chúng là những yếu tố tĩnh mà là năm lực lượng động tương tác với nhau: Mộc sinh Kim, Thủy khắc Hỏa. Từ ‘hành động’ có nghĩa là làm, ‘hoạt động’, vì vậy từ ‘ngũ hành’ có nghĩa đen là năm hoạt động, hay năm tác nhân.
Tư duy triết học về Ngũ hành có xu hướng phân tích cấu trúc của sự vật và thu gọn chúng thành những nguyên tố ban đầu với những tính chất khác nhau, nhưng có tác động qua lại lẫn nhau. Đó là ngũ hành Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ, trong đó Kim tượng trưng cho bản chất trắng, khô, cay, Tây, v.v. Nước đại diện cho màu đen, mặn, phương Bắc, v.v. Gỗ đại diện cho bản chất phía đông của màu xanh lá cây, axit, v.v. Lửa đại diện cho bản chất của màu đỏ, vị đắng, phương nam, v.v. Đất đại diện cho trung tính, ngọt ngào, ở giữa, v.v.
Năm yếu tố này không cô lập tuyệt đối mà trong hệ Thổ sinh, chúng ảnh hưởng lẫn nhau theo những nguyên tắc sau:
một. Tương hỗ (hóa sinh của nhau): Thổ sinh Kim; Kim sinh Thủy; gỗ nước,
Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, v.v.
“Ngũ hành đồng sinh” là quá trình các yếu tố tác động và thay đổi lẫn nhau, tạo nên sự biến đổi không ngừng trong vũ trụ và vạn vật. Đất tạo ra chất rắn biến thành kim loại. Kim loại nóng chảy tạo ra nước. Thủy ngân là mạch máu của gỗ. Gỗ cháy sinh ra lửa.
Lửa thiêu đốt mọi sinh vật sinh ra trên trái đất, v.v.
b. Mâu thuẫn (kiềm chế lẫn nhau): Đất gặp nước, nước gặp lửa, lửa gặp kim loại,
Kim khắc Mộc, và Mộc khắc Thổ, v.v.
“So sánh ngũ hành” là một quá trình trong đó các yếu tố của năm yếu tố mâu thuẫn với nhau, tạo ra mối liên kết hạn chế lẫn nhau giữa chúng. Nước đánh bại Lửa vì nước lạnh làm nguội và dập tắt lửa. Cháy xước Kim loại vì lửa làm nóng chảy và biến dạng kim loại và chất rắn. Kim khắc Mộc vì kim loại có thể bị cưa, chặt cây. Mộc khắc Thổ vì rễ ăn sâu vào lòng đất, v.v…
Học thuyết Âm – Dương và Ngũ hành được kết hợp thành một vào thời Xuân Thu Chiến Quốc. Âm – Dương, Ngũ hành sử dụng nguyên lý Tương sinh – Tương phản của Ngũ hành để lý giải vạn vật và từ đó nảy sinh ra quan niệm duy tâm về “Ngũ đức”. Từ đó, các nhà cầm quyền đã có ý thức phát triển thuyết Âm – Dương, Ngũ hành thành triết học thần học, chẳng hạn như thuyết “linh ứng của trời” của Đổng Trọng Thư, hay “Phụng mệnh thiên tử” của đời này sang đời khác. Thời Hán.