Nó là gì? (Triết học Marx Lenin)

(Cập nhật lần cuối vào: 22/01/2022)

Vật Chất là gì? Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất.

loại vật liệu

Thành phần Là một phạm trù triết học, nó đã có lịch sử phát triển hơn 2500 năm. Từ xa xưa, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đồng thời, cũng như mọi phạm trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát triển gắn liền với thực tế và nhận thức của con người.

Trong khi chủ nghĩa duy tâm hiểu bản chất thế giới, cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại là nguồn gốc tinh thần, và vật chất chỉ được hiểu là sản phẩm của nguồn gốc tinh thần đó thì chủ nghĩa duy vật lại quan niệm: bản chất của thế giới; Thực tiễn của thế giới là vật chất – tồn tại vĩnh viễn, tạo nên mọi sự vật, hiện tượng cùng với các thuộc tính vật chứng.

Trước khi chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời, nhìn chung, các nhà triết học duy vật hiểu vật chất là một hoặc một số chất tự có, đầu tiên sinh ra vũ trụ. Vào thời cổ đại, Trường phái Ngũ hành ở Trung Quốc xem vật chất là Kim, gỗ, nước, lửa, đất. Ở Hy Lạp, người Miletians lập luận rằng trước đây chỉ đơn giản là nước, không khí, lửa, nguyên tử…Cho đến thế kỷ XVII – XVIII, các quan niệm trên đây về vật chất của các nhà duy vật về cơ bản vẫn giống nhau, mặc dù hình thức biểu hiện có thể khác một chút.

Với quan niệm cho rằng vật chất là một hay nhiều chất tự có, trước hết, sự ra đời của vũ trụ chứng tỏ các nhà duy vật trước Mác đã đồng nhất vật chất với vật chất. Sự đồng nhất này là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều hạn chế trong nhận thức: chưa hiểu rõ bản chất của các hiện tượng ý thức và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức; Không có cơ sở để xác định những biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội nên không có cơ sở để đứng trên quan điểm duy vật khi giải quyết các vấn đề xã hội. Hạn chế này tất yếu dẫn đến quan điểm duy vật nửa vời và không triệt để: khi giải quyết các vấn đề tự nhiên, các nhà duy vật đứng trên quan điểm duy vật, nhưng khi giải quyết các vấn đề xã hội họ lại thất bại theo chủ nghĩa duy tâm.

Sự phát triển của khoa học tự nhiên vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, đặc biệt là những khám phá của W. Roentgen, H. Becquerel, J. J. Thomson… đã bác bỏ quan điểm duy vật về thứ vật chất được coi là “biên giới cuối cùng”, từ đó dẫn đến khủng hoảng thế giới quan. trong lĩnh vực nghiên cứu vật lý. Những người theo chủ nghĩa duy tâm nhân cơ hội này nhấn mạnh tính chất “phi vật chất” của thế giới, khẳng định vai trò của các lực lượng siêu nhiên đối với sự sáng tạo ra thế giới.

Trong bối cảnh lịch sử đó, Lê-nin đã tổng kết những thành tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, đồng thời nêu rõ tính tất yếu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, Người vạch rõ ý đồ xuyên tạc thành tựu khoa học tự nhiên của các nhà triết học duy tâm, bằng cách khẳng định bản chất vật chất của thế giới. và cung cấp định nghĩa kinh điển về vật chất:

“Vật chất là xấu xa” triết học học cách sử dụng để chỉ thực tại khách quan được cung cấp cho con người trong cảm giác, được sao chép, chụp ảnh, phản ánh bởi cảm giác của chúng ta và tồn tại độc lập với cảm giác.

Theo định nghĩa của Lê-nin về vật chất:

– Cần phân biệt “vật chất” là một phạm trù triết học chỉ những biểu hiện cụ thể của vật chất. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa các thuộc tính và quan hệ vốn có của sự vật, hiện tượng, từ đó phản ánh một cách tổng quát, vô hạn, vô tận, không sinh, không mất; Nhưng mọi sự vật, hiện tượng đều là những biểu hiện đặc biệt của vật chất nên nó có quá trình phát sinh, phát triển và biến đổi. Vì vậy, không thể đồng nhất vật chất bằng một hay nhiều biểu hiện cụ thể của vật chất.

Thuộc tính quan trọng nhất của vật chất là mục tiêu tức là những thuộc tính tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người, dù con người có nhận thức được nó hay không.

– Vật chất (ở dạng tồn tại cụ thể) là những gì có thể gây ra tình cảm cho con người nếu nó tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào giác quan của con người; Ý thức của con người là sự phản ánh của vật chất, còn vật chất là sự phản ánh của ý thức.

Định nghĩa của Lê-nin về vật chất rất cần thiết cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và ý thức khoa học:

– Biết rằng thuộc tính quan trọng nhất của vật chất là khách quan, Lênin đã phân biệt sự khác nhau giữa vật chất và vật chất, khắc phục những hạn chế trong quan niệm vật chất cũ về vật chất. ; cung cấp cơ sở khoa học để xác định đâu là vật chất; tạo cơ sở lý luận để xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, khắc phục những hạn chế duy tâm trong quan niệm lịch sử của chủ nghĩa duy vật trước Mác.

– Khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan “do con người cảm giác được” và “được giác quan của chúng ta chép lại, chụp ảnh và phản ánh”, Lênin không chỉ khẳng định tính chất thứ nhất, tính chất thứ hai của ý thức theo quan điểm duy vật mà còn nhấn mạnh khả năng con người hiểu được thực tế khách quan thông qua việc “sao chép, chụp ảnh và phản chiếu” con người với thực tế một cách khách quan.

Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, xe máy là phương thức tồn tại của vật chất; không gian thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.

Chuyển động là con đường trong của vật liệu.

Ph.Ăngghen định nghĩa: “Vận động theo nghĩa chung nhất – được hiểu là phương thức tồn tại của vật chất, bản chất vốn có của vật chất – bao gồm mọi sự thay đổi và mọi quá trình. Xảy ra trong vũ trụ, từ những thay đổi vị trí đơn giản cho đến những suy nghĩ. ”

Theo quan niệm của Ph.Ăngghen: chuyển động không đơn thuần là sự thay đổi vị trí trong không gian, mà “mọi sự thay đổi và mọi quá trình đều diễn ra trong vũ trụ”, chuyển động “là phương thức tồn tại của vật chất”. vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất “, do đó, thông qua sự vận động, các dạng vật chất nhất định biểu hiện sự tồn tại cụ thể của chúng; chuyển động của vật chất là chuyển động của cái tôi; và, sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vật chất.

Căn cứ vào những thành tựu khoa học ở thời đại của mình, Ph.Ăngghen đã chia chuyển động thành 5 dạng cơ bản: chuyển động cơ học, chuyển động vật lý, chuyển động hóa học, chuyển động sinh học và chuyển động xã hội.

Các dạng chuyển động nêu trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao theo cấp độ cấu tạo của vật liệu. Các hình thức vận động tuy khác nhau về chất nhưng không tồn tại biệt lập mà liên quan chặt chẽ với nhau, trong đó: hình thức vận động cao hơn nảy sinh trên cơ sở hình thức vận động thấp hơn và được bao hàm trong chúng. sự chuyển động. Trong quá trình tồn tại của mình, mỗi vật có thể có nhiều dạng chuyển động khác nhau, nhưng bản thân nó luôn có đặc điểm là dạng chuyển động cao nhất mà nó sở hữu.

Bằng cách phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ph.Ăngghen đã đặt cơ sở cho sự phân loại, chia nhỏ và thống nhất khoa học. Ý tưởng về sự thống nhất nhưng phẩm chất khác nhau của các hình thức vận động cơ bản cũng là cơ sở để bác bỏ khuynh hướng đánh đồng các hình thức vận động khác hoặc liên hệ hình thức vận động này với hình thức vận động khác trong quá trình nhận thức.

Khi nêu vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất; Chủ nghĩa duy vật biện chứng cũ khẳng định vận động là vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa là chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự cân bằng; nhưng đứng yên thì thăng bằng chỉ là hiện tượng tương đối, trong khi và thực chất đứng yên thì thăng bằng chỉ là một trạng thái chuyển động đặc biệt.

Đứng yên là tương đối bởi vì sự im lặng, sự cân bằng chỉ xảy ra trong một số mối quan hệ nhất định, không phải tất cả các mối quan hệ; Ở trạng thái nghỉ, thăng bằng chỉ xảy ra ở một dạng vận động chứ không phải ở tất cả các dạng vận động. Đứng yên là ba lần bởi vì đứng yên không phải là cái tồn tại vĩnh viễn, mà chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, chỉ trong một mối quan hệ nhất định hoặc trong một mối quan hệ nhất định, dù trong im lặng thì một quá trình biến đổi nhất định vẫn diễn ra.

Đông cứng Trở thành tình trạng đặc biệt của xe máy, tức là chuyển động ở một vị trí ổn định và cân bằng; Chuyển động không làm thay đổi cơ bản chất lượng, vị trí, hình dạng và cấu trúc của vật thể.

Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất:

Mỗi dạng vật chất cụ thể đều tồn tại ở một nơi nhất định, có giới hạn nhất định và tồn tại trong mối quan hệ nhất định với các dạng vật chất khác. Một dạng tồn tại như vậy được gọi là không thời gian. mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn thể hiện ở quá trình biến đổi: sớm hay muộn, diễn thế và biến đổi v.v. Những dạng tồn tại như vậy được gọi là thời gian.

Ph.Ăngghen đã viết: “Hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; Sự tồn tại vượt thời gian cũng vô lý như ở ngoài không gian vậy ”. Vì vậy, vật chất, không gian và thời gian không tách rời nhau; không có vật chất tồn tại bên ngoài không gian và thời gian; Không gian và thời gian đều không tồn tại ngoài vật chất đang chuyển động.

Là biểu hiện của sự tồn tại của vật chất, không thể tách rời vật chất, không gian và thời gian có những thuộc tính giống như vật chất, đó là bản chất của vật chất. mục tiêu, tính toán bất tử, vô cùng, và vô cùng.

Ngoài ra, không gian có tính chất ba chiều, trong khi thời gian chỉ có một chiều. Không gian ba chiều và thời gian một chiều đại diện cho dạng tồn tại của sự mở rộng và tiến hóa của vật chất chuyển động.

Sự thống nhất vật chất của thế giới

Thế giới vật chất rất phong phú, đa dạng nhưng những biểu hiện của thế giới vật chất đều phản ánh bản chất của thế giới và thống nhất với nhau.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, Thế giới thống nhất ở vật chất. Theo quan điểm đó:

  • Chỉ có một thế giới duy nhất, thế giới vật chất; Thế giới vật chất là thế giới có từ trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
  • Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, không có kết thúc, không có giới hạn, không sinh ra, không chết.
  • Tất cả các mặt tồn tại của thế giới vật chất đều có mối quan hệ thống nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng vật chất cụ thể, là cấu trúc vật chất, có nguồn gốc vật chất, do vật chất tạo ra, chịu sự chi phối chung của phổ và các quy luật khách quan. từ thế giới vật chất. Trong thế giới vật chất không có gì khác ngoài các quá trình vật chất chuyển hóa lẫn nhau, thành nguồn gốc, nhân quả với nhau.

Bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới là kết luận được rút ra từ sự khái quát các thành tựu khoa học, được khoa học và thực tiễn đời sống con người kiểm nghiệm. Không chỉ định hướng cho cộng đồng giải thích sự đa dạng của thế giới mà còn định hướng cho cộng đồng tiếp tục nhận thức về sự đa dạng này để thực hiện quá trình cải cách pháp luật

Leave a Reply