Nguyên tắc về mối quan hệ phổ quát

Khái niệm liên hệ. Trong khi cùng tồn tại, các vật luôn tác động qua lại lẫn nhau, từ đó thể hiện tính chất và bộc lộ bản chất bên trong, khẳng định mình là vật có thật. Những thay đổi trong tương tác chắc chắn làm cho các đối tượng, các thuộc tính của chúng thay đổi và trong những điều kiện cho phép chúng thậm chí biến mất, biến thành các đối tượng khác. Sự tồn tại của một đối tượng, sự tồn tại của các thuộc tính phụ thuộc vào sự tương tác của nó với các đối tượng khác, chứng tỏ rằng đối tượng đó có quan hệ với các đối tượng khác. Nhưng điều đó có liên quan gì?

“Mối quan hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ mối quan hệ, quy luật và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận bên trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng. Mối quan hệ là mối quan hệ giữa hai đối tượng nếu một trong hai đối tượng thay đổi thì tất yếu sẽ làm cho đối tượng thay đổi. Mặt khác, cô lập (tách biệt) là trạng thái của một đối tượng, khi sự thay đổi của một đối tượng này không ảnh hưởng đến đối tượng khác, không làm thay đổi đối tượng đó.

Thực sự liên quan và cô lập không có nghĩa là một số đối tượng luôn luôn có liên quan và những đối tượng khác bị cô lập. Trong những trường hợp nói trên vẫn có sự cô lập, cũng như những trường hợp biệt lập, vẫn có mối quan hệ tương hỗ. Trên thế giới mọi vật thể đều biệt lập và liên quan đến nhau. Chúng có liên quan với nhau theo một số cách, chứ không liên quan đến nhau theo một số cách khác, ở đó có một sự thay đổi khiến đối tượng khác thay đổi và một thay đổi không làm thay đổi đối tượng khác. . Như vậy, quan hệ và cách li hợp nhất với nhau, ví dụ điển hình là quan hệ giữa cơ thể sống với môi trường. Sinh vật sống gắn bó với môi trường nhưng đồng thời cũng tách rời khỏi nó, có tính độc lập tương đối.

Trước đây, những người theo chủ nghĩa duy tâm đã vẽ ra mối liên hệ giữa ý thức và tinh thần (Hegel cho rằng ý niệm tuyệt đối là cơ sở của các quan hệ, và theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan), mặt khác, cảm giác là cơ sở của quan hệ giữa các đối tượng. ). Từ quan điểm cho rằng mọi tồn tại trong thế giới là một dây chuyền của một thực thể vật chất, các trạng thái và hình thức tồn tại khác nhau của nó, phép biện chứng duy vật thừa nhận trong mối quan hệ với nhau là một hệ thống tổng quát của các sự vật. Nhưng khi nói đến quan hệ phổ quát, cũng cần phân biệt khái niệm mới này với quan hệ đơn thuần. Khi nói về các mối quan hệ, chúng ta chủ yếu chỉ chú ý đến sự liên kết và tác động lẫn nhau giữa vật chất và vật hữu hình, ngược lại trong thế giới tinh thần, sự vật không phải là vật hữu hình mà chưa được xem là hình thái tư tưởng (khái niệm, phán đoán, suy luận. ) hay các phạm trù khoa học – các hình thức tri giác cũng có quan hệ mật thiết với nhau và liên quan đến sự vật hiện thực – vật chất thô. Khi khái niệm quan hệ được mở rộng cả giữa các đối tượng tinh thần và giữa chúng với các đối tượng khách quan thì sẽ có khái niệm quan hệ phổ quát. Có nhiều loại quan hệ, trong đó có những quan hệ tổng quát, là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng, những quan hệ đó được gọi là quan hệ phổ biến. Thế giới không phải là một chỉnh thể hỗn loạn của các đối tượng, mà là một hệ thống các quan hệ đối tượng. Như vậy, chính sự thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở cho mọi mối quan hệ. Nhờ sự thống nhất đó mà các vật thể không thể tồn tại riêng lẻ mà luôn tương tác, biến đổi với nhau.

Quan điểm siêu hình về sự tồn tại của các đối tượng và hiện tượng trong thế giới, thường phủ nhận các mối quan hệ cần thiết giữa các đối tượng, đã được phổ biến rộng rãi trong khoa học tự nhiên và sau đó được lan truyền sang triết học. Ở Tây Âu vào thế kỷ XVII – XVIII, trình độ khoa học tự nhiên còn hạn chế, chủ yếu là thu thập tài liệu và nghiên cứu thế giới tách rời từng bộ phận. Cách nhìn nhận như vậy dẫn đến thế giới quan triết học rơi vào sai lầm là xác lập ranh giới giả tạo giữa các sự vật và hiện tượng, phản đối việc nghiên cứu khoa học đặc biệt. Vì vậy, quan điểm siêu hình không có khả năng phát hiện ra các quy luật, tính chất và tính phổ biến của sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.

Mặt khác, quan điểm duy vật biện chứng cho rằng các sự vật, hiện tượng của thế giới tồn tại trong mối quan hệ với nhau, quy định, thẩm thấu và biến đổi lẫn nhau, nhưng không tách rời nhau. Đó là nội dung của nguyên lý liên hệ vạn vật. Cơ sở tồn tại của các mối quan hệ khác nhau là sự thống nhất vật chất của thế giới; Như vậy, các sự vật và hiện tượng có rất nhiều trong thế giới chỉ là những hình thức tồn tại khác nhau của thế giới vật chất duy nhất.

Bản chất của các mối quan hệ phổ quát.

Phép biện chứng duy vật khẳng định tính khách quan các mối quan hệ và tầm ảnh hưởng trên thế giới. Giữa các sự vật, hiện tượng vật chất có mối quan hệ và tác động qua lại với nhau. Giữa các sự vật, hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần có mối quan hệ. Có mối liên hệ giữa các hiện tượng tinh thần với nhau (mối liên hệ và tác dụng giữa các hình thức tri giác)… Mối quan hệ và tác dụng đó – xét đến cùng, chúng đều là sự quy định và tác động qua lại, chuyển hoá và phụ thuộc lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng.

Phổ biến Các mối quan hệ tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư tưởng, có vô số mối quan hệ đa dạng, chúng giữ những vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận động của con người, sự vận động, biến đổi của các sự vật, hiện tượng. Mối quan hệ qua lại, sắp xếp, chuyển hoá lẫn nhau không chỉ xảy ra trong mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội, tư tưởng mà còn diễn ra giữa các mặt, các yếu tố và quá trình của mỗi người.

Tổng hội có đa dạng, phong phú. Giữa các sự vật, hiện tượng có những mối quan hệ về mặt không gian cũng như về mặt thời gian. Có những kết nối chung ảnh hưởng đến tất cả hoặc hầu hết các khu vực trên thế giới. Có những mối quan hệ riêng chỉ ảnh hưởng đến một số lĩnh vực, đối tượng, hiện tượng. Giữa nhiều sự vật, hiện tượng có mối quan hệ trực tiếp nhưng cũng có mối quan hệ gián tiếp. Có mối quan hệ tất nhiên, cũng có mối quan hệ ngẫu nhiên. Có những mối quan hệ thiết yếu và có những mối quan hệ không thiết yếu chỉ đóng vai trò phụ thuộc. Có mối quan hệ chính và mối quan hệ phụ… chúng đóng vai trò khác nhau trong việc quy định sự vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng.

Để phân loại các mối quan hệ như trên còn phải tùy thuộc vào tính chất, vai trò của từng mối quan hệ. Tuy nhiên, cách phân loại này chỉ mang tính chất tương đối, vì quan hệ đối tượng rất phức tạp nên không thể tách chúng ra khỏi tất cả các quan hệ khác. Tất cả các mối quan hệ cũng cần được nghiên cứu chi tiết trong quá trình biến đổi và phát triển của chúng.

Như vậy, nguyên lý liên hệ phổ biến khái quát toàn thế giới dưới dạng các mối liên hệ tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng. Tính vô hạn của thế giới cũng giống như tính vô hạn của các sự vật, hiện tượng, chỉ có thể được giải thích bằng những quan hệ phổ quát, được xác định bằng những quan hệ của nhiều hình thức và vai trò khác nhau.

Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại trong nhiều mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau; Vì vậy, khi học môn học nào đó cần phải tuân thủ nguyên tắc hoàn chỉnh. Từ những nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng được khái quát thành nguyên lý toàn diện với yêu cầu là tác nhân nhận thức và thực tiễn.

– Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét một đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong một thể thống nhất gồm các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính và các mối quan hệ của tổng thể đó; “Cần phải xem và nghiên cứu tất cả các khía cạnh, tất cả các mối quan hệ và“ mối liên hệ gián tiếp ”của sự vật, nghĩa là trong tổng thể thống nhất của“ tổng hợp các mối quan hệ khác nhau của sự vật với sự vật khác ”(VILENIN) .

Thứ hai, chủ thể phải rút ra những mặt, những mối quan hệ cần thiết từ đối tượng và nhìn nhận nó trong một thể thống nhất hữu cơ bên trong, chỉ như vậy tri giác mới phản ánh được sự tồn tại hoàn toàn khách quan với nhiều thuộc tính, nhiều quan hệ, liên hệ, tác động qua lại của các đối tượng.

– Thứ ba, cần xem xét những thay đổi của đối tượng này trong mối quan hệ với đối tượng khác và môi trường xung quanh, bao gồm các khía cạnh của mối quan hệ giữa và mối quan hệ gián tiếp; Trong một không gian và thời gian nhất định, cần nghiên cứu mối quan hệ của các đối tượng trong quá khứ, hiện tại và dự đoán tương lai của chúng.

Thứ tư, cái nhìn toàn diện trái ngược với cái nhìn phiến diện, phiến diện, chỉ thấy một mặt mà không thấy mặt kia; hoặc chú ý nhiều mặt mà xét bao quát, không thấy được thực chất của đối tượng, nên dễ sa vào ngụy biện (đánh tráo quan hệ cơ bản với không cơ bản hoặc ngược lại) và chiết trung (liên tưởng không tự chủ từ liên tưởng mâu thuẫn thành tương đồng) . một).

Leave a Reply