Nguyên tắc lịch sử cụ thể là gì?

Tại sao phải tôn trọng những nguyên tắc cụ thể về mặt lịch sử (triết học Mác Lênin) trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của mình?

Các nguyên tắc lịch sử cụ thể là gì?

Nguyên lý lịch sử-cụ thể (quan điểm lịch sử cụ thể) là khoa học về các mối quan hệ và sự phát triển phổ biến, cụ thể là hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực và phạm trù nói về các mối quan hệ phổ biến và về những phát triển xảy ra trên khắp thế giới. Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình tồn tại trong thực tế đều bao gồm các yếu tố, bộ phận khác nhau; có nhiều tác động qua lại (quan hệ, liên hệ) với nhau và với các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau; qua đó nó biểu hiện thành những phẩm chất khác nhau. Hơn nữa, mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều tồn tại trong quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong của chính nó; Quá trình này biểu hiện cụ thể, bao gồm tất cả những thay đổi và phát triển diễn ra trong những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau, tương tác với các sự vật, hiện tượng hoặc quá trình khác nhau, trong những không gian và quá trình khác nhau, ở những thời điểm khác nhau.

Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử – cụ thể bao hàm toàn bộ nội dung của hai nguyên tắc, nguyên tắc về mối liên hệ phổ biến và nguyên tắc về sự phát triển

Hai nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng là hai nguyên lý cơ bản và có vai trò quan trọng trong quan điểm duy vật biện chứng của triết học Mác – Lênin khi xem xét, lý giải các sự vật, hiện tượng. Trong hệ thống đó nguyên tắc liên hệ phổ biến và nguyên tắc phát triển là hai nguyên tắc chung nhất. Nội dung của hai nguyên tắc cơ bản như sau:

  • Nguyên tắc liên hệ phổ biến là nguyên lý lý luận coi các sự vật, hiện tượng khách quan tồn tại trong mối quan hệ hoặc ràng buộc với nhau, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các đối tượng. Thế giới.
  • Nguyên tắc phát triển là một nguyên lý lý luận, trong đó khi xem xét các sự vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng trong một quá trình vận động, phát triển không ngừng (tăng dần từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn) . Điều).

Phương pháp hợp nhất lịch sử và logic

Để đưa những nguyên tắc lịch sử nhất định vào thực tiễn, cần phải vận dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Phương pháp lịch sử là phương pháp tái hiện sự phát triển của các hiện tượng, sự kiện lịch sử với đầy đủ các đặc điểm riêng biệt của chúng. Phương pháp lôgic là phương pháp nghiên cứu diễn biến lịch sử, nghiên cứu các hiện tượng lịch sử dưới dạng tổng quát của chúng, nhằm giải mã bản chất của các quy luật và xu hướng chung trong sự vận động của chúng. Tiêu chí của chân lý là lý thuyết phù hợp với thực tế, tức là lôgic phản ánh chính xác thực chất của lịch sử. Mặt khác, trong nhận thức, lôgíc chung chung chưa được thực tiễn lịch sử kiểm nghiệm chưa chắc đã là chân lý, bởi vì chân lý luôn mang tính cụ thể trong nhận thức, Lê-nin nhấn mạnh: “nếu lý tính trừu tượng thì không phải là chân lý” . Vì vậy, trong thực tiễn, cả phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic đều phải thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau.

Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, nếu tôn trọng các nguyên tắc lịch sử – cụ thể là có tác dụng gì?? Mặt khác, nếu chúng ta không tôn trọng các nguyên tắc của lịch sử – thì hậu quả là gì?

Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải nghiên cứu quá trình hình thành, tồn tại và phát triển đặc biệt của sự vật trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định.

Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải đề ra những biện pháp phòng ngừa đặc biệt, áp dụng cho một số sự vật, tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh, mối quan hệ nhất định mà không áp dụng những khuôn mẫu chung cho bất cứ điều gì, trong những điều kiện, hoàn cảnh, mối quan hệ nhất định.

Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, tôn trọng các nguyên tắc lịch sử – cụ thể là sẽ giúp nhận thức rõ:

  • Những thứ đã (đã hoặc sẽ) tồn tại nhờ chất lượng và số lượng như thế nào; thể hiện bằng mức độ nào; Những bước (đã hoặc sẽ) thực hiện để tạo ra chất lượng và số lượng mới?
  • Mâu thuẫn cho dù mọi thứ đang (có hoặc sẽ) bị ảnh hưởng bởi; Các mặt mâu thuẫn ở giai đoạn nào, có vai trò như thế nào đối với sự vận động và phát triển của sự vật?
  • Phủ định biện chứng những gì đang hoặc sẽ xảy ra; cái cũ nào (đã hoặc sẽ) biến mất, cái nào mới (đã hoặc sẽ) xuất hiện…
  • Trong mối quan hệ với những thứ khác, những gì được coi là đặc biệt hoặc duy nhất, những gì là chung hoặc đặc biệt / phổ quát; Làm thế nào để chúng xác định nhau và thay đổi lẫn nhau?
  • Bản chất của sự vật là gì, hiện tượng được thể hiện qua những hình thức nào; Hiện tượng nào là hư cấu, hiện tượng nào là tiêu biểu?
  • Nội dung của sự vật là gì, thông qua hình thức nào (đã hoặc sẽ có); hình thức nào phù hợp với nội dung của đối tượng, hình thức nào không phù hợp với nội dung, nguyên nhân làm thay đổi nội dung của đối tượng.
  • Trong bản thân sự vật, thực tại là gì; những khả năng (đã hoặc sẽ) nảy sinh từ thực tế đó; Làm thế nào trong những điều kiện cụ thể mà mỗi khả năng này trở thành hiện thực…

Biết những điều này sẽ giúp chúng ta:

  • Đánh giá chính xác các đặc điểm và điểm mạnh, điểm yếu của nó
  • Có định hướng thì dễ, hành động đúng mới hiệu quả
  • Vận dụng các chính sách cụ thể vào tình hình thực tế một cách đúng đắn, mang lại thắng lợi.
  • Khái quát các sự kiện xảy ra trong nghiên cứu khoa học hoặc các sự kiện xảy ra trong quá trình lịch sử loài người; ý thức được sự đa dạng của tự nhiên, sự phong phú của lịch sử trong sự thống nhất.

Nguyên tắc lịch sử – cụ thể còn được coi là “linh hồn” phương pháp luận của triết học Mác – Lênin. Nó tổng hợp trong mình những nguyên lý, quan điểm và yêu cầu phương pháp luận của triết học Mác – Lênin, do đó, hiểu theo nghĩa rộng, nó cũng là một phương pháp biện chứng. Vì vậy, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, nếu chúng ta không tôn trọng nguyên tắc lịch sử cụ thể có nghĩa là đi ngược lại phương pháp biện chứng, tức là phương pháp siêu hình:

  • Quan sát một đối tượng một cách cô lập, ngăn cách đối tượng với phần còn lại và giữa các mặt đối lập có một ranh giới tuyệt đối.
  • Quan sát các đối tượng ở trạng thái tĩnh; Nếu có thay đổi thì đó chỉ là thay đổi về lượng, nguyên nhân của sự thay đổi nằm ngoài đối tượng.

Hệ quả của phương pháp siêu hình là con người chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không thấy mối quan hệ qua lại giữa chúng, chỉ thấy sự tồn tại của những sự vật đó mà không thấy chúng. vật mà quên chuyển động của những thứ đó, chỉ thấy cây mà không thấy rừng.

Tóm lại, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, nếu không tôn trọng nguyên tắc lịch sử – cụ thể sẽ đem lại hậu quả vô cùng nghiêm trọng, luôn nhìn nhận sự vật, hiện tượng một cách phiến diện, trừu tượng, không bao giờ giải quyết được mâu thuẫn; sẽ không bao giờ có phương hướng và hành động đúng đắn khi giải quyết vấn đề.

Leave a Reply