Hiện nay cả thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang đi vào cuộc cách mạng công nghệ 4.0, đây là cuộc cách mạng khoa học công nghệ lớn nhất trong lịch sử loài người từ trước đến nay, nền kinh tế số được hiểu là cả thế giới. -nền kinh tế số, phát triển nền kinh tế số dựa trên công nghệ và dữ liệu số để tạo ra một nền kinh tế và mô hình kinh doanh mới.
Vậy xu hướng công nghệ số và định hướng thành công của cuộc cách mạng 4.0 của Việt Nam như thế nào?
Xu hướng phát triển của nền kinh tế kỹ thuật số
Theo dr. Phạm Việt Dũng (2020), thuật ngữ “nền kinh tế số” đã được nhắc đến từ rất lâu trước khi có khái niệm Cách mạng Công nghiệp 4.0. Tuy nhiên, chỉ đến khi Công nghiệp 4.0 xuất hiện, kinh tế số mới được nhắc đến rộng rãi hơn và trở thành xu thế phát triển, bởi nó gắn liền với các công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, tài sản số… Hiện nay, có rất nhiều quan điểm và khái niệm về nền kinh tế kỹ thuật số, ngay cả với sự lan rộng của “số hóa” vào nền kinh tế thực, không dễ để mô tả rõ ràng về nền kinh tế số.
Theo định nghĩa chung của Nhóm Cộng tác Kinh tế Kỹ thuật số Đại học Oxford, nền kinh tế kỹ thuật số là “nền kinh tế hoạt động chủ yếu dựa trên công nghệ kỹ thuật số, đặc biệt là các giao dịch điện tử được thực hiện qua internet”. . Kinh tế số đôi khi còn được gọi là kinh tế internet, kinh tế mới hay kinh tế mạng… Tại Việt Nam, kinh tế số được hiểu là mọi hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng số và sự phát triển của nền kinh tế số sử dụng công nghệ và dữ liệu số để tạo ra các mô hình kinh doanh mới. Trong nền kinh tế số, doanh nghiệp (DN) sẽ đổi mới quy trình sản xuất kinh doanh truyền thống sang mô hình hệ sinh thái, liên kết từ sản xuất, thương mại đến sử dụng và điều này sẽ làm tăng năng suất, cũng như hiệu quả của lực lượng lao động.
Theo dr. Phạm Việt Dũng (2020), nền kinh tế số không chỉ tạo ra quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế, mà còn làm thay đổi nền kinh tế trên hai lĩnh vực: (i) Phương thức sản xuất (nguồn lực, cơ sở hạ tầng, phương thức hoạt động sản xuất kinh doanh) ; (ii) Cơ cấu kinh tế. Ở đâu, cần lưu ý rằng ngoài các nguồn lực truyền thống, các nguồn lực phát triển mới đã xuất hiện, đó là nguồn lực kỹ thuật số và của cải kỹ thuật số. Trên thực tế, nền kinh tế số giúp tăng trưởng bền vững hơn, vì công nghệ sẽ mang lại những giải pháp tốt hơn và hiệu quả hơn cho việc sử dụng tài nguyên, xử lý các vấn đề ô nhiễm môi trường, v.v.
Nhận thấy xu hướng này, hầu hết các quốc gia phát triển trên thế giới đều đưa ra các chiến lược phát triển công nghệ số liên quan đến tăng trưởng kinh tế. Mỹ – nơi khởi nguồn của sự bùng nổ công nghệ thông tin với nhiều công ty nổi tiếng như Google, Amazon, Facebook, Apple… đã xác định được tầm quan trọng của nền kinh tế số. Ở Châu Âu, có kế hoạch “Thị trường kỹ thuật số duy nhất”, Úc có kế hoạch “Australia kỹ thuật số”…
Theo báo cáo của Google và Temasek, năm 2018, quy mô thị trường của nền kinh tế kỹ thuật số ở Đông Nam Á đạt 72 tỷ USD; Việt Nam đứng thứ 6 sau Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam, chỉ chiếm 1/8 tổng điểm (khoảng 11% mỗi đội). Đến năm 2025, ước tính quy mô thị trường của nền kinh tế số Đông Nam Á sẽ tăng lên 240 tỷ USD, và Việt Nam sẽ chiếm khoảng 18% giá trị thị trường của nền kinh tế số Đông Nam Á.
Thực trạng phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam
Trong 10 năm qua, nền kinh tế số của Việt Nam đã phát triển nhanh chóng cả về cơ sở hạ tầng và thị trường kinh doanh. Với dân số gần 100 triệu người, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có mức độ phát triển kinh tế số tốt trong khu vực ASEAN. Việt Nam ghi nhận sự xuất hiện của xu hướng số hóa trong nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế, từ thương mại, thanh toán đến giao thông, giáo dục, y tế… Đến nay, Việt Nam có khoảng 64 triệu người dùng internet. Trung bình, người Việt Nam dành 3 giờ 12 phút để sử dụng Internet mỗi ngày trên các thiết bị di động như điện thoại thông minh và theo mức trung bình của khu vực, việc sử dụng tập trung vào mạng xã hội và truyền thông, liên lạc (52%), ứng dụng video (20%) và trò chơi (11%), và đơn xin việc.
Theo báo cáo “Kỹ thuật số Đông Nam Á 2019” do Google, Temasek và Bain công bố ngày 3/10/2019, nền kinh tế kỹ thuật số của Việt Nam năm 2019 đạt giá trị 12 tỷ USD (chiếm 5% GDP cả nước) vào năm 2019, cao gấp 4 lần so với giá trị năm 2015 và dự kiến đạt 43 tỷ USD vào năm 2025, trong các lĩnh vực: Thương mại điện tử, du lịch trực tuyến, truyền thông trực tuyến và công nghệ gọi xe. Nền kinh tế kỹ thuật số của Việt Nam, cùng với Indonesia, đang dẫn đầu khu vực Đông Nam Á với mức tăng trưởng trung bình 38% / năm so với mức 33% của toàn khu vực kể từ năm 2015. Hà Nội và TP. Thành phố Hồ Chí Minh là 2 trong 7 thành phố lớn phát triển nền kinh tế số của khu vực. Việt Nam đã trở thành thị trường tiếp nhận đầu tư lớn thứ ba trong khu vực (sau Indonesia và Singapore), với các khoản đầu tư đạt 600 triệu USD từ năm 2018 đến nửa đầu năm 2019 so với tổng giá trị 350 triệu USD năm 2018 và 140 triệu USD. triệu USD vào năm 2017.
Tháng 9 năm 2019, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 52-NQ / TW đặt mục tiêu nền kinh tế số Việt Nam đạt 20% GDP vào năm 2025, phát triển cộng đồng doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam. Ngày 3 tháng 6 năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký và công bố Nghị định số 749 / QĐ-TTg đã phê duyệt “Chương trình quốc gia về chuyển đổi số đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030” với mục tiêu đưa Việt Nam vào nhóm. chính phủ điện tử, liên quan đến phát triển nền kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, mục tiêu đến năm 2025 nền kinh tế số đóng góp 20% GDP; tỷ trọng nền kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực tối thiểu 10%; đến năm 2030, kinh tế số chiếm 30% GDP; Tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực tối thiểu là 20% (Bảng 1)
Một số hàm ý chính sách
Nền kinh tế số sẽ mở ra cơ hội lớn cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Kinh tế số được xác định là động lực phát triển quan trọng giúp Việt Nam tiến nhanh và mạnh mẽ trở thành nước công nghệ tiên tiến. Để phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam, cần thực hiện các giải pháp sau:
Về phía quản lý
– Sự cần thiết phải “luật hóa” nội dung kinh tế số để đảm bảo cơ sở pháp lý thống nhất và vững chắc cho việc triển khai và thực hiện chương trình nghị sự về kinh tế số. Tiếp tục tập trung nghiên cứu, đề xuất thêm các ưu đãi về thuế đối với lĩnh vực phần mềm, khu công nghệ cao, khu phần mềm. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, phát triển và kinh doanh công nghệ mới, xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.
– Tập trung đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật số và các giải pháp công nghệ số hiện đại để triển khai các ứng dụng số được kết nối thông minh, đẩy nhanh ứng dụng thanh toán không dùng tiền mặt, điện khí hóa hiệu quả, bảo đảm an toàn, an ninh mạng, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp thừa hưởng lợi ích kinh tế số.
– Thực hiện các biện pháp kỹ thuật và phi kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả quản lý các nền tảng kỹ thuật số toàn cầu hoạt động xuyên biên giới tại Việt Nam, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, công bằng cho các doanh nghiệp trong nước.
Đối với cộng đồng doanh nghiệp
– Nâng cao nhận thức về sự phát triển của nền kinh tế số, từ đó có sự chuẩn bị tốt nhất để thích ứng với xu thế phát triển này. Các công ty cần chủ động chuẩn bị cho mình để nắm bắt cơ hội, cũng như đảm bảo khả năng cạnh tranh quốc tế trong nền kinh tế kỹ thuật số toàn cầu; đẩy mạnh đầu tư hạ tầng công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực khi tham gia vào nền kinh tế số.
– Tập trung đầu tư hạ tầng kỹ thuật số, bao gồm phát triển nhanh dịch vụ internet di động 5G, đầu tư mở rộng mạng cáp quang tốc độ cao và tăng băng thông internet quốc tế.
– Tập trung phát triển các sản phẩm nội dung số, truyền thông số, quảng cáo số. Phát triển công nghiệp sáng tạo, hệ sinh thái nội dung số đa dạng và hấp dẫn của Việt Nam
Hướng đến cơ sở đào tạo
– Thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, quản lý chuyển đổi số cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, người điều hành doanh nghiệp.
– Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế số. Chương trình đào tạo nhân lực công nghệ thông tin cần hướng tới đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục công nghệ thông tin, đặc biệt cập nhật giáo trình đào tạo công nghệ thông tin liên quan đến xu hướng công nghệ mới như kết nối internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, công nghệ robot, tạo điều kiện cho học sinh tiếp cận. trường càng sớm càng tốt.