“Len” trong tiếng Khmer có nghĩa là đi tự do, “lông trâu” có nghĩa là thả rông cho trâu. Ở đây nước ngập, nước ngập từ 1m đến 4m. Người dân vùng lũ không có chỗ ở, trâu cũng không có chỗ ở. Vì vậy, anh phải lên chỗ cao để kiếm cỏ ăn. Ở nhà, đêm không ngủ được với nước, ban ngày thì ăn sao được, cỏ lấy đâu ra mà cho ăn. Người chăn trâu, chủ trâu phải dắt trâu lên chỗ cao ”- Nhà văn Sơn Nam.
Rừng Cà Mau là tập truyện ngắn nổi tiếng của Sơn Nam – nhà văn miệt vườn Nam Bộ. Xuất bản lần đầu năm 1962, với hồn sông nước và tình yêu quê hương gửi gắm, Hương rừng Cà Mau đã trở thành tập truyện được nhiều người yêu thích. Nhiều đạo diễn cũng có ý định làm phim nhưng tạm thời vẫn nghiên cứu kỹ. Như lời kể của nhà văn Sơn Nam: “Họ nói khó quá, không làm được”. Nhưng anh vẫn coi đó là “món nợ tinh thần”.
Cho đến năm 2003, tức là hơn 40 năm sau, đạo diễn Việt kiều Nguyễn Võ Nghiêm Minh về nước, tìm tư liệu cho bộ phim đầu tay của mình. Hồi cấp 2, anh từng đọc một tập truyện của nhà văn Sơn Nam và rất thích. Vì vậy Nghiêm Minh đề nghị và được lão văn gia đồng ý. Kịch bản do chính Nghiêm Minh viết, viết trong vòng chưa đầy 30 ngày, thành phim, hầu như không thay đổi.
Mùa len trâu là một giai đoạn lịch sử, tái hiện cuộc sống của người nông dân Việt Nam miền Tây sông nước những năm 30-40. Nhân vật chính là Kim, con trai của một gia đình nông dân nghèo. Trên sông có hai mùa mưa nắng, mùa khô thì gieo, gặt chưa kịp mưa thì ruộng đất ngập trong nước lũ, cứ thế ròng rã hàng tháng trời. Nước ngập sâu từ 1-4m, lúc đó mọi thứ đều rất lớn.
Khi nước đọng thì cỏ ngập, còn ngập cỏ thì trâu đói. Trâu là tài sản quý giá nhất của người nông dân, như lời người kể chuyện ở đầu phim. Có trâu mới cày đất, trồng lúa, mới ăn. Sau mấy tháng, trâu gầy còm, hốc hác, trâu không có cỏ, có chỗ ngủ cũng đành chịu, nằm dưới nước cũng không được. Vì thế mới có nghề “vặt lông trâu”, nhận trâu của nông dân thành đàn vài trăm con, đi vùng cao Bảy Núi có khi cả 40km, phải mất vài tháng mới về.
Tang ban đầu chỉ là một thiếu niên ngây thơ. Buộc lòng, ba Ghim còn lại để đi theo len trâu với những người khác. Từ đây, cuộc hành trình để đời của Đường Tăng bắt đầu. Dân len trâu cũng giống như một nhóm giang hồ mãi võ, rượu chè, hút chích, trai gái nhưng cũng mang đậm tinh thần Nam Bộ. Vừa cụng ly, vừa thổi sáo, vỗ tay Dạ Cổ Hoài Lang, ban đêm chân tay đâm chém nhau.
Từ đây, Tang mới trở thành một người đàn ông. Anh ta cũng học thói xấu, nhậu nhẹt, chửi thề và sẵn sàng đâm chém bất cứ lúc nào. Nhưng cùng với đó, là sự kiên cường, khẳng khái và nghị lực vượt lên hoàn cảnh. Tang biết cách quản lý len của riêng họ, bất chấp sự nguy hiểm của cha mẹ. Pinch gặp lại người bạn hôm trước bỏ tiền túi ra bỏ vào nhóm, vì “hôm đó bận quá, phải lấy tiền lo cho mẹ”. Anh ấy lớn lên trở thành một người đàn ông đáng tin cậy.
Nhà văn Sơn Nam kể về chuyến đi này: “Trước đây, trẻ con đi theo trâu, áo không có, chăn không có, cơm áo gạo tiền thiếu thốn, quả là một điều khó khăn. Vì vậy đối với chúng tôi hạng dưới, tôi hạng dưới, đó là bài học cho những người trẻ làm người lớn ”.
Nước là hình ảnh trung tâm của toàn bộ bộ phim. Mở đầu cũng là cảnh ngôi nhà chìm trong biển nước, khung hình miêu tả một chú trâu đang bơi dưới làn nước xanh. Nước là bối cảnh cho toàn bộ bộ phim, nước ngập ruộng, mưa từ trên trời rơi xuống, nước cuốn trôi những ngôi nhà mong manh.
Khi đứa trẻ hỏi Tang, nước từ đâu đến và chảy đi đâu? Nước sẽ chảy từ trên trời xuống các cánh đồng. Sau đó từ lĩnh vực này đến nơi tiếp theo? Sau đó đến biển. Đi biển ở đâu? Sau đó anh ấy sẽ trở lại thiên đường. Cũng giống như mùa mưa và mùa nắng, cuộc sống kết thúc bằng cái chết, và sau đó bắt đầu bằng cái chết. Bức tranh của nước là một vòng tuần hoàn, cuộc sống luôn tiếp diễn không ngừng nghỉ. Mùa lông trâu hết rồi lại đến, khó khăn cứ thế sinh sôi.
Đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh cho biết: “Vào rừng Hương, Cà Mau, tôi đã thấy vẻ đẹp rất riêng của một không gian được bao phủ bởi nước, dù tôi chưa một lần đặt chân đến. Tôi rất thích hình ảnh và triết lý về nước ”. Nước là biểu tượng của cái chết, nó rửa trôi cây cỏ, người chết thậm chí không còn đất để chôn, điều này được miêu tả một cách cảm động trong phim. Mà nước còn là biểu tượng của sự sống, vì con người cũng dựa vào nước để làm ăn và sinh sống.
Người miền Nam được miêu tả nhiều số phận, nhiều khía cạnh, chân thực và sâu sắc. Một chút ngừng lại từ khi một vài tên Pháp xuất hiện, nhưng mờ dần và biến mất giữa những chiếc thuyền nhỏ. Số phận của những người dân quê lương thiện vẫn đang trỗi dậy như Kim, sinh ra vào mùa lông trâu khỏi tội lỗi của người cha, cứng cỏi và giỏi bênh vực. Cuộc sống khó khăn của vợ chồng Định và Ban. Bà Hai và người chồng tốt bụng đã chăm sóc cháu Kim khi cháu mất cha.
Người ta miêu tả cuộc sống “ba chìm bảy nổi” của những người nông dân thời kỳ đó, của những người “không biết làm chủ việc gì” đầy bấp bênh và nguy hiểm, nhưng vô cùng xúc động trước khát vọng sống sót đến tê liệt của họ. Dân tộc ta từ ngàn đời trước chưa bao giờ khuất phục trước thiên nhiên hung bạo, xâm lược. Không chỉ là truyền thống, mà còn là sức mạnh kế thừa, khi người cha ngã xuống, người con vùng lên, như dòng nước ngừng chảy, như cuộc đời không bao giờ dừng lại.
Tờ Le Figaro của Pháp nhận xét về “Mùa len trâu”: “Một bộ phim thơ mộng với những cảnh đẹp của miền Nam Việt Nam”.
Vốn là một giảng viên Vật lý, nhưng với tình yêu điện ảnh, Nguyễn Võ Nghiêm Minh đã học để trở thành một đạo diễn tài ba. Với kiến thức vật lý của mình về bố cục, ánh sáng, chất liệu và màu sắc, anh ấy đã tạo ra những khung hình ấn tượng trong các bộ phim. Ấn tượng là cảnh hàng trăm con trâu di chuyển giữa dòng nước mà không hề gây hoang mang, chóng mặt cho người xem. Các góc độ như bước chân trâu, giọt nước trong không khí, góc mặt cắt và góc đứng được sắp xếp khá hợp lý, tạo nên sự cứng cáp, to lớn nhưng vẫn theo một trật tự nhất định.
Anh biết cách tạo ấn tượng, như ánh sáng le lói phía xa con thuyền vào lúc nửa đêm, hay ánh sáng rung chuyển dữ dội trong gió khi bão đến. Đây là một phong cách rất gọn gàng, kín đáo và kín đáo. Đặc biệt có những sáng tạo ở cảnh tĩnh nhưng vẫn có chuyển động, giống như giọt nước, bọt mưa dần tạnh rồi tan, dòng nước lặng mà như trôi theo mây. Ai đã từng xem chắc hẳn sẽ nhớ mãi hình ảnh ngôi nhà giữa đại dương bao la, như hoài niệm về quá khứ.
Âm thanh được thu trực tiếp tại chỗ nên khi trẻ thổi sáo vẫn còn một số sai sót. Nhưng nhìn chung, kỷ lục rất thành công. Phần âm nhạc do nhạc sĩ Tôn Thất Thiết đảm nhận nên vẫn gợi âm hưởng của những bộ phim Trần Anh Hùng. Tuy nhiên, những đoạn nhạc sáo vang lên, những câu hát Dạ Cổ Hoài Lang hoàn toàn thuộc về Nam phòng.
Mùa len trâu được sản xuất với kinh phí 1 triệu USD, đoạt nhiều giải thưởng quốc tế: Giải Đặc biệt tại Liên hoan phim Locarno, Thụy Sĩ; Giải Đạo diễn xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Chicago, Hoa Kỳ; Giải Grand Prix của Liên hoan phim Amiens, Pháp. Như nhà văn Sơn Nam đã nói: “Bộ phim này đã giành được nhiều giải thưởng, chứng tỏ bản sắc dân tộc của chúng ta đã được thế giới công nhận. Đối với xã hội của chúng tôi, bộ phim này giống như một phép thử về tình yêu đối với dân tộc ”.
Đừng bỏ lỡ Mùa Chay Trâu khi cần để cảm nhận cái hồn Việt vốn đã dần bị lãng quên trong các nền điện ảnh nước nhà, thổi trở lại mạnh mẽ dù đã xa xưa.