Khi có nhận thức đầy đủ về các mặt, các mối liên hệ và các đặc điểm riêng của sự vật, hiện tượng thì nhận thức vẫn chưa phản ánh đầy đủ bản chất của nó. Vì vậy, cùng với việc tích lũy tri thức, cần nhận thức sự phụ thuộc lẫn nhau, mối quan hệ qua lại giữa các mặt, giữa các mối quan hệ này và đặt chúng trong một thể thống nhất biện chứng, coi cả hai đều là những yếu tố của sự thống nhất hữu cơ. Giải quyết thành công nhiệm vụ này đưa nhận thức phản ánh đầy đủ bản chất của sự vật, hiện tượng tương ứng.
1. Điền
Bản chất là phạm trù dùng để chỉ tổng thể các quan hệ khách quan mang tính tự nhiên tương đối ổn định bên trong, quy định sự vận động, phát triển của các sự vật và biểu hiện qua sự vật hiện tượng của các sự vật tương ứng.
Hiện tượng là một phạm trù chỉ biểu hiện của mặt, mối liên hệ tất nhiên là tương đối ổn định về mặt bên ngoài; là mặt biến đổi nhiều hơn và là biểu hiện bản chất của vật thể.
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan trong mối quan hệ hữu cơ, cái này không thể tồn tại mà không có cái kia. Về cơ bản bản chất và hiện tượng có xu hướng song hành với nhau, bởi vì mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng, sự thống nhất đó được thể hiện bằng bản chất đang tồn tại thông qua hiện tượng, sự vật hiện tượng phải là những biểu hiện của bản chất; bản chất được “phản ánh” bởi các hiện tượng (Hegel).
Tuy nhiên, “nếu các hình thức biểu hiện và bản chất của sự vật trực tiếp giống hệt nhau, thì tất cả khoa học sẽ là thừa.” [C.Mác, Tư bản, Tập 3: Toàn bộ quá trình sản xuất tư bàn nghĩa, Phần thứ 2, C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t. 25, phần II, tr.540.]; Trong những điều kiện nhất định, bản chất biểu hiện dưới dạng biến đổi, làm sai lệch các yếu tố hiện thực của tự nhiên bằng cách thêm hoặc bớt của tự nhiên một số thuộc tính hoặc yếu tố do hoàn cảnh nhất định và các mối quan hệ ngẫu nhiên quy định, làm phong phú thêm hoặc làm nghèo đi các hiện tượng từ nó. Nhưng bản chất của nó luôn là cái gì đó tương đối ổn định, ít biến đổi, còn hiện tượng thì ngày càng “động” và biến đổi không ngừng. V.I.Lênin đã viết “Không chỉ là những hiện tượng nhất thời, chuyển động, trôi chảy, ngăn cách bởi những ranh giới quy ước đơn thuần, mà còn là bản chất của vạn vật”. [V.I.Lênin (2005), Bút ký triết học,Toàn tập, t, 29, Sđd. tr. 268].
Tự nhiên có quan hệ mật thiết với cái phổ quát (là một trong những mối liên hệ cơ bản nhất tạo nên cơ sở của hệ thống thống nhất của vạn vật, là sợi dây chung xuyên suốt và được xâu chuỗi lại với nhau. Chuỗi vạn vật trở thành một mối) , phản ánh nhu cầu chung, xác định chung về sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng; và hiện tượng phản ánh cái riêng, cái thống nhất. Tự nhiên cũng là một trật tự, vì nói đến tự nhiên là nói đến tổng thể các quy luật quyết định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Từ đó có thể hiểu rằng không phải ngẫu nhiên mà V.I.Lênin lại nhấn mạnh đến sự giống nhau và khả năng thay thế lẫn nhau của các phạm trù “Quy luật”, “Bản chất” và “Phổ quát”.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, bản chất chỉ biểu hiện qua hiện tượng, còn hiện tượng thường biểu hiện bản chất ở dạng biến đổi, do đó trong mọi hoạt động không thể chỉ thấy biểu hiện bên ngoài (hiện tượng) mà cần phải đi sâu vào bên trong để hiểu và làm rõ bản chất. thường. ẩn sau hiện tượng; dựa trên các quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng.
Thứ haiAibản chất là sự thống nhất giữa các mặt, là mối liên hệ vốn có của sự vật và hiện tượng, bản chất là lĩnh vực chi phối của các mặt mâu thuẫn biện chứng và chúng được giải quyết trong quá trình phát triển dẫn đến sự thay đổi của bản chất, tạo nên sự biến đổi của các sự vật từ một hình thức khác, các phương thức áp dụng cho các hoạt động cũ trước đó cũng phải được thay đổi bởi các phương thức khác, theo các thuộc tính đối tượng đã thay đổi.