Nhận thức về sự tác động, tác động qua lại giữa các mặt, các yếu tố hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau như là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự xuất hiện các mặt, các yếu tố, sự vật, hiện tượng mới về chất, là một khâu quan trọng quyết định đến việc phát hiện ra quan hệ nhân quả. yếu tố quan hệ phổ quát.
Khái niệm nhân quả
Nguyên nhân là một phạm trù dùng để chỉ sự tác động qua lại giữa các mặt trong một đối tượng hoặc giữa các sự vật gây ra những thay đổi nhất định. Ví dụ: Lao động và vai trò của nó là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự hình thành ngôn ngữ và ý thức của con người. Cần phải phân biệt nguyên nhân của lý do.
Các kết quả là một phạm trù dùng để chỉ những thay đổi xảy ra do ảnh hưởng lẫn nhau giữa các mặt của một đối tượng hoặc giữa các đối tượng. Hay nói cách khác, hiệu ứng là sự thay đổi do ảnh hưởng của các yếu tố nguyên nhân. Ví dụ: Cách mạng vô sản là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Nhận thức về nhân quả như trên giúp khắc phục hạn chế coi nguyên nhân của bất kỳ sự vật, hiện tượng nào, trong những điều kiện nhất định, nằm ngoài sự vật, hiện tượng đó; vừa khắc phục được nhược điểm coi nguyên nhân chủ yếu của sự vận động, biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất nằm ngoài nó, ở một lực lượng phi vật chất nào đó.
Đặc điểm và mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
Triết học duy vật biện chứng cho rằng trong sự tồn tại, vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng của thực tế khách quan đều có mối quan hệ nhân quả. Mối quan hệ nhân quả là khách quan, cần thiết và phổ biến. Phê phán những hiểu lầm triết học duy tâm về bản chất của mối quan hệ giữa kết quả và hậu quả, Fan Engels nhấn mạnh rằng “Hoạt động của con người là đá chạm vàng nhân quả ”. Trên thực tế, con người không chỉ có thể quan sát từng hiện tượng một mà còn có thể tự mình gây ra một số hiện tượng và quá trình trong các thí nghiệm khoa học, giống như các hiện tượng hay quá trình đó trong tự nhiên. Từ quan điểm cho rằng mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư tưởng đều do những nguyên nhân nhất định, kể cả những nguyên nhân chưa được vật chất hóa nên phép biện chứng duy vật là nguyên lý xác định rất quan trọng của tri thức khoa học. Từ quan điểm cho rằng những tác động do nguyên nhân sinh ra cũng phụ thuộc vào những điều kiện và hoàn cảnh nhất định, phép biện chứng duy vật cho rằng một nguyên nhân nào đó trong một hoàn cảnh nhất định chỉ có thể gây ra một tác động. do đó, nguyên nhân càng ít khác nhau thì ảnh hưởng càng ít khác nhau.
Quan niệm duy vật biện chứng về nhân quả không cứng nhắc và cũng không mang tính thời đại. Trong quá trình vận động và phát triển, nhân quả có thể đổi chỗ và chuyển hóa lẫn nhau. Điều gì tại một thời điểm hoặc trong một mối quan hệ, nguyên nhân là ở một thời điểm khác kết quả; nguyên nhân được “dập tắt” trên thực tế và hiệu quả được “dập tắt” trong nguyên nhân của nó; Nguyên nhân tự cháy sinh ra hiệu ứng, tác dụng bị dập tắt sinh ra nguyên nhân (Hegel). Nhưng nếu sự vật, hiện tượng có nguyên nhân thì không có nghĩa là mọi sự vật, hiện tượng đều chỉ do một nguyên nhân gây ra. Trên thực tế, một tác động có thể do nhiều nguyên nhân gây ra, vì vậy việc phân loại nguyên nhân thành nguyên nhân chính, nguyên nhân phụ, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài… cho kết quả vừa phải, vừa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Cho nên:
Nguyên nhân là cái tạo ra kết quả, vì vậy nguyên nhân luôn có trước kết quả. Tuy nhiên, không phải tất cả sự liên tục theo thời gian đều là quan hệ nhân quả. Điều quan trọng là phải phân biệt quan hệ nhân quả theo thời gian liên tục giữa nguyên nhân và kết quả cũng có một mối quan hệ sản xuất, một mối quan hệ trong đó nguyên nhân tạo ra kết quả.
+ Tuỳ theo những điều kiện, hoàn cảnh khách quan nhất định mà một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều ảnh hưởng hoặc ngược lại.
+ Phân biệt sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả là tương đối.
+ Nguyên nhân sinh ra hậu quả, nhưng một khi đã xuất hiện thì tác dụng không đóng vai trò độc lập với nguyên nhân, trái lại tác động ngược trở lại nguyên nhân theo một hướng khác.
+ Các hình thức của mối quan hệ nhân quả rất đa dạng và phong phú. Về cơ bản đã chỉ ra: Nguyên nhân – thứ yếu, nguyên nhân bên trong – bên ngoài, khách quan – chủ quan, v.v.
Phương pháp luận có nghĩa là
Thứ nhất, nếu một sự vật, hiện tượng nào đó đều có nguyên nhân và được xác định bởi nguyên nhân của nó, thì để hiểu được sự vật, hiện tượng đó phải tìm được nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của nó; Muốn loại bỏ một sự vật, hiện tượng không cần thiết thì phải loại bỏ nguyên nhân đã gây ra nó.
Thứ hai, về mặt thời gian, nguyên nhân có trước tác dụng, vì vậy khi tìm nguyên nhân của sự vật, hiện tượng cần phải tìm được sự vật, sự việc, mối liên hệ xảy ra trước khi sự vật, hiện tượng xuất hiện. Trong thời gian hay trong một mối quan hệ nhất định, vì nhân quả có thể đổi chỗ, chuyển hóa lẫn nhau, cảm nhận tác động của một sự vật, hiện tượng và xác định phương hướng chính xác của nhau. sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ đóng vai trò tác dụng, cũng như trong mối quan hệ mà nó đóng vai trò là nguyên nhân, tạo ra một kết quả nhất định. .
Thứ ba, một sự vật, hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra và quyết định nên khi nghiên cứu một hiện tượng không nên vội vàng đưa ra kết luận nguyên nhân nào đã sinh ra nó; Muốn tạo ra một sự vật, hiện tượng có ích cho thực tiễn thì phải lựa chọn phương pháp phù hợp nhất với điều kiện, hoàn cảnh nhất định, không nên rập khuôn theo phương pháp cũ. Trong những nguyên nhân làm phát sinh một sự vật, hiện tượng có nguyên nhân chính và nguyên nhân thứ yếu, nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài, do đó trong nhận thức và hành động cần phải dựa vào nguyên nhân chủ yếu và cốt lõi bên trong.