Động cơ là gì? [Tâm lý học]

Khái niệm về động cơ và nhu cầu

Động lực có thể được mô tả như một nội lực thúc đẩy hành vi của chúng ta. Động lực được tạo ra bởi những nhu cầu chưa được đáp ứng khi chúng ta trở nên căng thẳng. Có nghĩa là, tại bất kỳ thời điểm nào trong cuộc sống của chúng ta có thể có nhiều nhu cầu, nhưng nhu cầu mãnh liệt nhất sẽ đóng vai trò là động lực thúc đẩy.

Động lực là một thuật ngữ chung áp dụng cho toàn bộ nhóm có khuynh hướng, ước mơ, nhu cầu, nguyện vọng và động lực giống nhau. Khi chúng tôi nói rằng các nhà quản lý thúc đẩy nhân viên, chúng tôi muốn nói rằng họ là những người mà họ hy vọng sẽ đáp ứng những xu hướng và nguyện vọng đó và thúc đẩy nhân viên hành động theo cách mong muốn. .

Chúng ta có thể coi động lực là một phản ứng tuần tự: bắt đầu từ cảm giác cần thiết, dẫn đến mong muốn và mục tiêu, dẫn đến trạng thái căng thẳng cưỡng bức, sau đó dẫn đến hành động để đạt được mục tiêu và cuối cùng đạt được kết quả mong muốn.

Hình 1. Con đường từ nhu cầu đến thỏa mãn
Hình 1. Con đường từ nhu cầu đến thỏa mãn

Vì vậy, thứ tạo ra động lực để hành động chính là nhu cầu. Nhu cầu cần thiết, thuộc tính tự nhiên, tâm lý con người, là những yêu cầu cần thiết Hình thức Mong muốn Nguyên nhân Trạng thái Căng thẳng Dần dần dẫn đến Hành động Tạo ra Sự thoả mãn để tồn tại và phát triển. Nhu cầu thường nảy sinh trong ý thức con người ở ba cấp độ khác nhau, đó là ý định, mong muốn và nguyện vọng. Khi nhu cầu đã đạt đến nguyện vọng, nó biến thành động lực để hành động. Nhưng cần phải phân biệt giữa động cơ và sự thỏa mãn, động cơ là xu hướng và nỗ lực nhằm thỏa mãn một mong muốn hoặc một mục tiêu. Sự thoả mãn là sự thoả mãn khi một mong muốn được thực hiện.

Việc phát hiện ra động cơ hành động rất phức tạp. Vì mỗi hành động, một hành vi nhất định có thể có nhiều động cơ. Có động cơ sinh lý, có động cơ tâm lý. Có động cơ thứ cấp, động cơ chính, những động cơ này được xếp theo thứ tự tăng dần và giảm dần, tùy thuộc vào mức độ quan trọng của chúng đối với một cá nhân hoặc tình huống cụ thể.

lý thuyết động lực

Thuyết nhu cầu của Maslow

Trong các hệ thống lý thuyết về động lực, hệ thống phân cấp nhu cầu của Abraham Maslow là lý thuyết được biết đến nhiều nhất. Maslow cho rằng hành vi của con người xuất phát từ nhu cầu và nhu cầu của con người được xếp theo mức độ ưu tiên từ thấp đến quan trọng. Các cấp độ được phân thành 5 cấp độ.

  • Nhu cầu sinh lý: Là nhu cầu ở mức thấp nhất, đảm bảo cho sự tồn tại của con người như: ăn, uống, mặc, tồn tại và phát triển giống nòi và các nhu cầu khác của cơ thể. Đây là nhu cầu cơ bản mà mỗi cá nhân phải cố gắng đạt được trước khi đạt đến mức nhu cầu cao hơn thứ hai. Maslow cho rằng khi những nhu cầu này chưa được thoả mãn ở mức độ cần thiết để duy trì sự sống thì những nhu cầu khác sẽ không thể thúc đẩy con người.
  • Nhu cầu an toàn: Nhu cầu cảm thấy an toàn, không bị đe dọa về thể chất và tinh thần cản trở các hoạt động hàng ngày, chẳng hạn như đe dọa mất việc làm, v.v.
  • Nhu cầu xã hội: Nhu cầu tình yêu, sự chấp nhận, giao tiếp, trao đổi, nhu cầu hòa nhập xã hội, v.v.
  • Cần được tôn trọng: Muốn được người khác tôn trọng, hãy coi mình là người quan trọng. Loại nhu cầu này dẫn đến sự thỏa mãn như quyền lực, uy tín, địa vị và lòng tự trọng
  • Nhu cầu tự hiện thực hóa: là nhu cầu cấp cao nhất, khi bốn nhu cầu cấp thấp hơn đã được đáp ứng thì con người cố gắng đạt được để thể hiện mình ở mức cao nhất, phát huy hết tiềm năng của con người. A. Maslow chia nhu cầu thành hai cấp độ: cấp độ cao và cấp độ thấp. Nhu cầu ở mức thấp hơn là nhu cầu sinh lý và nhu cầu an toàn. Các nhu cầu bậc cao bao gồm nhu cầu xã hội, lòng tự trọng và sự tự hiện thực hóa. Sự khác biệt giữa hai yếu tố này là nhu cầu cấp thấp hơn được đáp ứng chủ yếu từ bên ngoài, trong khi nhu cầu cấp cao hơn được đáp ứng chủ yếu từ bên trong con người.

Lý thuyết phân cấp nhu cầu của Maslow có cơ sở quan trọng đối với giao tiếp của con người. Như vậy, giao tiếp xã hội là một nhu cầu ở mức cao hơn của con người. Nhu cầu không chỉ ở đối tượng giao tiếp mà còn ở đối tác giao tiếp. Vì vậy, trong giao tiếp, nghe và được nghe, nói và được nói phải công bằng cho cả hai bên. Nếu không, một trong các bên sẽ bực bội và không muốn tiếp tục hoạt động giao tiếp.

Trong giao tiếp với khách hàng, chúng ta cần biết khách hàng cần gì. Truyền thông của chúng ta hướng vào nhu cầu của khách hàng thì hiệu quả truyền thông mới cao.

Lý thuyết Tâm lý của Freud về Vô thức

Vô thức là một hiện tượng tâm lý không có sự tham gia của ý thức và xảy ra ngoài tầm kiểm soát của con người. Vô thức là một nhà phân tâm học

Sigmund Freud đã khám phá và phát biểu trong chuyên luận về “Vô thức trong động cơ”.

Hành vi của con người thường bắt nguồn từ động cơ để đạt được một mục tiêu nhất định. Động cơ đó, mục tiêu đó thường do chúng ta hiện thực hóa và kiểm soát. Nhưng vẫn có những hành vi, cử chỉ, câu nói mà chúng ta thực hiện một cách vô thức, tức là không nhận ra động cơ và mục đích của những hành động này.

Vô thức có thể được hình thành từ bản năng, nhu cầu tự nhiên; nhưng cũng có khi đó là một hành động vốn dĩ có ý thức, nhưng được lặp đi lặp lại nhiều lần đến mức trở thành vô thức (hay còn gọi là tiềm thức). Nói chung, thói quen và kỹ thuật giao tiếp của chúng ta nằm trong tiềm thức, nghĩa là chúng ta thực hiện nó một cách tự động.

Leave a Reply