Điều kiện lịch sử ra đời của triết học Mác là gì?
Điều kiện kinh tế xã hội
Triết học Mác cũng như một bộ phận của chủ nghĩa Mác ra đời từ những năm 40 của thế kỉ XIX. Cùng với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp vô sản thế giới được hình thành và phát triển với tư cách là lực lượng chính trị độc lập, là giai cấp cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Với sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã nảy sinh mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của sản xuất công nghiệp và hình thức tư hữu tư bản chủ nghĩa. Biểu hiện xã hội là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản, tức là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản là quy luật tất yếu khách quan của chủ nghĩa tư bản. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản được thể hiện dưới nhiều giai đoạn và hình thức cụ thể. Nhưng cuộc đấu tranh có nhu cầu khách quan về mặt tư tưởng, về mặt tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp vô sản (Đảng Cộng sản), v.v. Chủ nghĩa Mác ra đời đã có thể thoả mãn nhu cầu khách quan này. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới những năm 1930 – 40 của thế kỷ XIX, như Ph.Ăngghen đã ghi nhận, đã tạo ra bước ngoặt cơ bản trong quan niệm của Mác về lịch sử.
Nghiên cứu quá trình đấu tranh xã hội trong lịch sử và khái quát kinh nghiệm phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trên thế giới ở Anh, Pháp, Đức, … Mác và Ph.Ăngghen khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng và tiên tiến nhất, là giai cấp có khả năng xóa bỏ chủ nghĩa tư bản. và xây dựng xã hội mới, xã hội cộng sản. Sự ra đời của triết học Mác cũng giống như chủ nghĩa Mác là một tất yếu khách quan, nó phản ánh chính xác những điều kiện khách quan và có khả năng giải quyết những nhiệm vụ khách quan của thời đại. Trước hết, nó phản ánh nhu cầu tư tưởng khách quan của giai cấp công nhân, khẳng định vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với sự phát triển tất yếu của xã hội.
Nguồn gốc lý thuyết
Sự xuất hiện của triết học Mác là sự kế thừa quan trọng của toàn bộ lịch sử tư tưởng nhân loại. Nhưng về cơ bản là quan điểm phê phán triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng của Pháp, v.v.
Đối với triết học cổ điển Đức, Ngay từ đầu, ảnh hưởng của Hegel, Ông là người phê phán mạnh mẽ các phương pháp tư duy siêu hình, và là người đầu tiên phát biểu các quy luật của phép biện chứng. Tuy nhiên, tất cả triết học Hegel đều thừa nhận vai trò quyết định của “ý niệm tuyệt đối”, do đó triết học của ông là triết học duy tâm khách quan và chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Marx và Engels đã đồng nhất một cách nghiêm túc các tư tưởng khoa học trong phép biện chứng của Hegel và do đó hình thành các nguyên lý của phép biện chứng duy vật, như một hình thức cao nhất của phép biện chứng.
Feuerbach cũng ảnh hưởng to lớn đến quá trình hình thành quan điểm duy vật biện chứng và lịch sử của Mác – Ăng-ghen. Ảnh hưởng chủ yếu là quan niệm duy vật về tự nhiên và sự phê phán tôn giáo, chủ nghĩa duy tâm thần bí của Hegel. Nhưng Marx và Engels cũng nhìn thấy những hạn chế của chủ nghĩa duy vật của Feuerbach trong các vấn đề tôn giáo, và ngay cả sự phê phán của Feuerbach đối với Hegel. Khi Feuerbach không nhìn thấy bản chất của lôgic học trong phép biện chứng của Hegel, v.v.
Đối với học thuyết kinh tế chính trị của Anh cũng ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của triết học Mác, nhất là những tư tưởng về kinh tế chính trị – xã hội. Đó là các học thuyết kinh tế chính trị của A. D. Simit, D. Ricardo, v.v … Nghiên cứu quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới, Mác – Ăng-ghen đã nghiên cứu một cách toàn diện các quan hệ xã hội, đặc biệt là các quan hệ kinh tế vật chất, chính trị của xã hội tư bản.
Đối với chủ nghĩa xã hội không tưởng của Pháp là những tư tưởng của Saint-Simon, Phurie, v.v … mặc dù chúng chỉ ra những mâu thuẫn xã hội của chủ nghĩa tư bản, sự đối lập giữa tư bản và sức lao động, v.v. nhưng chúng không thấy được quy luật phát triển của xã hội, của xã hội và vai trò của giai cấp công nhân trong sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, những tư tưởng về giải phóng xã hội và nhân đạo khỏi chủ nghĩa xã hội không tưởng của Pháp cũng ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình thành thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học của Mác – Ăng-ghen về lịch sử giai cấp công nhân, v.v.
Tiền đề khoa học tự nhiên
Từ những năm 1930 đến những năm 40 của thế kỷ 19, sự phát triển của khoa học tự nhiên và những thành tựu của nó có vai trò hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm siêu hình và duy tâm trong triết học. đồng thời là người tạo ra những tiền đề khách quan cho sự ra đời của triết học Mác. Luật lệ bảo tồn và chuyển đổi năng lượng, đã chứng minh rằng cơ, nhiệt, ánh sáng, điện, từ các dạng trong các dạng chuyển động khác nhau của vật chất không thể tách rời nhau, có khả năng biến đổi lẫn nhau. Không có sự tạo ra hay mất đi năng lượng, chỉ có sự chuyển hóa lẫn nhau từ dạng này sang dạng khác.
Sự phát triển của sinh học gắn liền với sự xuất hiện lý thuyết tế bào, đấu tranh chống lại những quan niệm duy tâm siêu hình về nguồn gốc và mối quan hệ giữa hình thái thực vật – động vật. Nó xác định mối quan hệ biện chứng của nguồn gốc lịch sử và quy luật phát triển sinh học. Sự xuất hiện của lý thuyết Darwin đã được xác định sự phát triển sinh vật học. Thuyết tiến hóa của Darwin bác bỏ quan niệm duy tâm siêu hình về sự hằng số sinh học, và ông cũng là người đầu tiên định nghĩa sự biến đổi, tính di truyền giữa các loài, v.v.
Như vậy, những thành tựu của khoa học tự nhiên giữa thế kỉ XIX đã chứng minh những mối quan hệ biện chứng, những chuyển biến về chất trong các lĩnh vực khác nhau của giới tự nhiên. Điểm lại những thành tựu của khoa học tự nhiên Marx – Engels phát triển và cụ thể hóa vấn đề triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng.