Nguồn gốc và những lý luận cơ bản của chủ nghĩa thực dụng là gì?
Chủ nghĩa thực dụng là trường phái triết học phương Tây hiện đại đề cao kinh nghiệm và hiệu quả, ra đời cuối thế kỷ 19 ở Mỹ và sau những năm 40 của thế kỷ 20, vị trí thống trị của triết học Mỹ được thay thế bằng triết học nam Âu truyền sang Mỹ Liên minh. . Nói chung, triết học thực dụng chỉ giới hạn trong phạm vi kinh nghiệm, coi tri thức là công cụ để thích ứng với hoàn cảnh và coi chân lý là hữu ích.
Người sáng lập ra chủ nghĩa thực dụng là Perz, người sau này trở thành đại diện chính của James. Nguyên tắc cơ bản trong phương pháp luận của chủ nghĩa thực dụng là lấy hiệu quả làm tiêu chuẩn. Vì vậy, họ từng nghĩ triết học của họ không phải là lý luận triết học có hệ thống, mà là lý luận phương pháp luận.
Chủ nghĩa thực dụng đề cập đến một phương pháp tư duy nhất định. Đó là một phương pháp tư duy không xem xét khái niệm bên trong bản thân khái niệm, mà khảo sát xem nó tạo ra những hậu quả gì khi được sử dụng. Khái niệm và lý luận không phải là câu trả lời về thế giới, nhưng để phân biệt ý nghĩa và giá trị của chúng không phải là chúng có phản ánh đúng thực tế hay không mà là tác dụng của chúng có thể kiểm chứng được khi áp dụng vào thực tế hay không.
Đối với những người theo chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm không phải là chủ quan cũng không phải là khách quan, mà là “kinh nghiệm thuần túy” hay “kinh nghiệm sơ khai”. Kinh nghiệm là một khái niệm có hai nghĩa: nó bao gồm tất cả mọi thứ về ý thức chủ quan, nhưng nó cũng bao gồm tất cả những gì về sự vật và sự kiện khách quan. Tự nó, không có sự khác biệt hay xung đột về nguyên tắc giữa chủ quan và khách quan, v.v. Việc sử dụng hiệu quả chủ nghĩa thực dụng để đánh giá tất cả là do loại trừ thế giới bên ngoài và các quy luật khách quan, họ đã tuyệt đối hóa ảnh hưởng của ý chí con người, nên họ đã sa vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa tự nguyện.
Quan niệm của chủ nghĩa thực dụng về chân lý có quan hệ mật thiết với lý luận thực nghiệm của nó. Vì họ cho rằng tư duy của con người là cách trải nghiệm, hành vi thích ứng và là chức năng phản ứng của con người, không phải là bức tranh chủ quan của con người về thế giới khách quan, chỉ là mối quan hệ giữa các kinh nghiệm. Xem xét một khái niệm có đúng hay không không phải xem nó có phù hợp với thực tế khách quan hay không mà phải xem nó có tác dụng gì hay không. Cho nên, có ích và vô ích đã trở thành tiêu chuẩn để phân biệt giữa đúng và sai.
Quan niệm thực dụng về chân lý không chỉ mang tính chủ quan mà còn có khuynh hướng tương đối rõ ràng. Bởi họ cho rằng chân lý thỏa mãn nhất khi con người nhận thức hiện thực thông qua kinh nghiệm, tùy theo sở thích và sở thích của mỗi người, ở những thời điểm, địa điểm khác nhau. Vì vậy, chủ nghĩa thực dụng đã phóng đại tính cụ thể và tính tương đối của chân lý, dẫn đến tách rời chân lý cụ thể – tương đối – tuyệt đối và phủ nhận chân lý khách quan, v.v.