Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một nội dung rất quan trọng của lý luận triết học chủ nghĩa Mác – Lê-nin, là lý luận triết học về xã hội và lịch sử loài người nhằm xác định cơ sở vật chất của đời sống, xã hội, quy luật cơ bản của quá trình vận động và phát triển xã hội.
a) Vai trò của sản xuất và phương thức sản xuất trong đời sống xã hội
– Vai trò sản xuất
Con người tạo ra lịch sử và là chủ thể của lịch sử. Để tồn tại và phát triển, trước hết con người phải ăn, uống, sinh hoạt, ăn mặc rồi mới lo chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo, v.v. Vì vậy, họ phải lao động và sản xuất ra của cải vật chất. Sản xuất vật chất là tất yếu khách quan, là cơ sở của sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội; từ đó hình thành các quan điểm tư tưởng, các quan hệ xã hội và thiết chế xã hội khác nhau. Sản xuất vật chất là cơ sở của mọi tiến bộ xã hội.
Trong các yếu tố hình thành hình thái kinh tế – xã hội thì lực lượng sản xuất là động lực nhất, có tính cách mạng, luôn phát triển một cách khách quan. Sự phát triển của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến sự thay đổi của quan hệ sản xuất; từ đó gây ra những thay đổi trong các quan hệ xã hội khác làm cho xã hội phát triển mạnh mẽ.
Chủ nghĩa Mác – Lê-nin chỉ rõ nguyên nhân và động lực của sự phát triển xã hội là sự phát triển của sản xuất vật chất. Tạo ra của cải vật chất là yêu cầu khách quan của sự tồn tại và phát triển xã hội.
– Vai trò phương thức sản xuất
Phương pháp sản xuât là phương thức sản xuất vật chất được tiến hành trong một thời kỳ lịch sử nhất định. Mỗi phương thức sản xuất đều bao gồm hai bộ phận cấu thành: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Người sản xuất là mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, mức độ chinh phục tự nhiên của con người, mặt tự nhiên của phương thức sản xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động. Công cụ sản xuất bao gồm phôi và công cụ lao động, trong đó công cụ lao động là yếu tố năng động nhất, luôn đổi mới phù hợp với mục tiêu của quá trình phát triển sản xuất vật chất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, là mặt xã hội của phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu của người lao động đối với tư liệu sản xuất, quan hệ của họ trong quá trình tổ chức, quản lý và phân công lao động; mối quan hệ của chúng trong việc phân phối sản phẩm lao động. Ba mặt này có mối quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ giữa quyền sở hữu của người lao động và tư liệu sản xuất là một mặt khác quyết định mối quan hệ đó.
Phương thức sản xuất quyết định tính cách của xã hội. Xã hội do con người tạo ra bằng các hoạt động của mình. Nhưng không thể tùy tiện lựa chọn chế độ xã hội của chính mình. Những con người hay quốc gia vĩ đại, những ý tưởng, học thuyết khoa học không thể áp đặt một hệ thống xã hội. Sự ra đời của hệ thống xã hội trong lịch sử do nhân tố hoàn toàn khách quan của phương thức sản xuất quyết định. Phương thức sản xuất phong kiến quyết định tính chất của xã hội phong kiến. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa quyết định tính chất của hệ thống xã hội tư bản chủ nghĩa … vv.
Phương thức sản xuất quyết định cơ cấu tổ chức xã hội. Tổ chức cơ cấu của xã hội bao gồm tổ chức kinh tế, quan điểm tư tưởng, giai cấp, đảng phái, nhà nước, thiết chế xã hội và các tổ chức chính trị – xã hội khác. Tổ chức cơ cấu không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người mà do phương thức sản xuất quyết định. Mỗi phương thức sản xuất khác nhau làm phát sinh một kiểu tổ chức cơ cấu xã hội khác nhau.
Phương thức sản xuất quyết định sự biến đổi của xã hội loài người qua các thời kỳ lịch sử khác nhau. Lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển của sản xuất, thậm chí cả sự phát triển của tư liệu sản xuất.
Khi phương thức sản xuất cũ mất đi và phương thức sản xuất mới ra đời thì hệ thống xã hội cũ sẽ chết và hệ thống xã hội mới ra đời. Nhân loại đã trải qua năm phương thức sản xuất, tương ứng với năm hệ thống xã hội: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và cuối cùng là chế độ cộng sản chủ nghĩa (ở mức độ thấp hơn là xã hội chủ nghĩa).
Ý nghĩa của vấn đề: Khi nghiên cứu mọi hiện tượng xã hội, người ta phải tìm nguồn gốc hình thành từ phương thức sản xuất, từ tất yếu kinh tế. Nhận thức rõ vai trò của phương thức sản xuất trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế là nhiệm vụ chủ yếu, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong mối quan hệ với kinh tế tri thức.
b) Những quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển xã hội
+ Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Người sản xuất là nội dung vật chất của mỗi quá trình sản xuất, bao gồm các yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động, trong đó sức lao động là yếu tố cơ bản nhất, có vai trò quyết định đối với lực lượng sản xuất; Quan hệ sản xuất là quan hệ xã hội giữa người với người trong quá trình sản xuất, là hình thái kinh tế của quá trình này, bao gồm quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức – quản lý quá trình sản xuất và quan hệ phân phối. từ quá trình sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
Trong mọi phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất gắn bó hữu cơ với nhau. Lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, quan hệ sản xuất là hình thái xã hội của phương thức sản xuất. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của quá trình sản xuất. Vì lực lượng sản xuất xét theo trình độ nên quan hệ sản xuất rất chính xác. Mức độ quyền lực của sản xuất thủ công, với những công cụ cơ bản mang tính chất cá nhân, tự nó phụ thuộc vào quan hệ của sản xuất cá thể. Khi trình độ của lực lượng sản xuất thay đổi thì quan hệ sản xuất cũng thay đổi theo. Do con người luôn tích lũy sáng kiến kinh nghiệm, luôn cải tiến phương tiện và phương thức sản xuất nên lực lượng sản xuất luôn phát triển.
Hiện nay, khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức, kinh tế tri thức phát triển đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Lực lượng sản xuất đã phát triển đến mức quan hệ sản xuất cũ không còn phù hợp nữa và sẽ cản trở hoặc mâu thuẫn với lực lượng sản xuất. Để tiếp tục phát triển, lực lượng sản xuất phải phá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới theo trình độ mới của lực lượng sản xuất.
Vai trò tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với sức số lượng sản xuất
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và mức độ của lực lượng sản xuất thì chúng sẽ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất không tương thích thì nó kìm hãm, thậm chí tiêu diệt lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tương ứng với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất khi tạo tiền đề và điều kiện cho các yếu tố của lực lượng sản xuất (sức lao động, công cụ, đối tượng lao động) kết hợp hài hòa với nhau để phát triển sản xuất đem lại năng suất lao động cao.
Sự điều chỉnh giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất không phải chỉ tiến hành một lần mà diễn ra trong cả quá trình. Mỗi khi sự tương ứng của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất bị phá vỡ, thì mỗi khi chúng được điều chỉnh, chúng lại được thay thế bằng một cái gì đó cao hơn.
Ý nghĩa của vấn đề: Ở đâu có đối tượng lao động thì phải có đối tượng lao động và công cụ lao động phù hợp với trình độ, kỹ năng của người lao động. Điều quan trọng là phải làm rõ mối quan hệ sở hữu, cách thức tổ chức và quản lý quá trình sản xuất, hình thức phân phối hợp lý để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
+ Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
cơ sở hạ tầng là toàn bộ quan hệ sản xuất tạo nên cơ cấu kinh tế của hình thái kinh tế – xã hội cụ thể, bao gồm quan hệ sản xuất thống trị và quan hệ sản xuất còn lại của hình thái kinh tế – xã hội trước và quan hệ sản xuất của hình thái kinh tế – xã hội tương lai. Trong ba kiểu quan hệ sản xuất thì quan hệ sản xuất thống trị là quan hệ sản xuất thống trị và chi phối các quan hệ sản xuất khác và là một đặc điểm của cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng đẳng cấp.
Kiến trúc thượng tầng là tổng thể các quan điểm tư tưởng, chính trị, pháp luật, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, triết học và các thiết chế liên quan như nhà nước, đảng phái, giáo hội, đoàn thể, v.v. được hình thành trên một cơ sở hạ tầng cụ thể và phản ánh cơ sở hạ tầng đó.
Mỗi bộ phận của kiến trúc thượng tầng có những đặc điểm riêng, quy luật vận động, mối quan hệ riêng với cơ sở hạ tầng và tác động qua lại với nhau. Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính chất giai cấp. Cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng được xây dựng như thế nào cho phù hợp. Quan hệ sản xuất thống trị tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị phù hợp. Khi cơ sở hạ tầng thay đổi, thì kiến trúc thượng tầng cũng vậy. Sự biến đổi cơ sở hạ tầng, sớm hay muộn, đều dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì cơ sở hạ tầng mới ra đời, thì sớm muộn gì kiến trúc thượng tầng cũ cũng mất đi và kiến trúc thượng tầng mới ra đời. Kiến trúc thượng tầng là một lĩnh vực độc lập tương đối của ý thức xã hội. Khi cơ sở hạ tầng bị mất đi nhưng các bộ phận của kiến trúc thượng tầng bị mất đi không đồng đều thì một số bộ phận vẫn còn, thậm chí vẫn còn sử dụng được.
Kiến trúc thượng tầng quay trở lại, bảo vệ cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Kiến trúc thượng tầng được đặt lên hàng đầu khi nói đến việc bảo vệ cơ sở hạ tầng tiến bộ và tác động của chúng là thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển. Những kiến trúc thượng tầng bảo thủ và lỗi thời sẽ tạm thời cản trở sự phát triển của cơ sở hạ tầng; sớm hay muộn sẽ được thay thế.
Mỗi bộ phận của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ tầng dưới những hình thức và mức độ khác nhau, trong đó nhà nước giữ vai trò quan trọng và hiệu quả nhất vì nhà nước là công cụ quyền lực và hữu hiệu, là kết quả của giai cấp thống trị trong xã hội.
Ý nghĩa của vấn đề: Kinh tế quyết định chính trị, để hiểu được các hiện tượng và quá trình xã hội cần phải xem xét cơ sở kinh tế làm phát sinh các hiện tượng xã hội này. Nhưng chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, có khả năng thúc đẩy và phát triển nền kinh tế.