Chủ nghĩa duy vật biện chứng là gì? Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
– Tìm hiểu bản chất của thế giới là một trong những vấn đề cơ bản của triết học. Quan điểm duy tâm cho rằng bản chất của thế giới là ý thức, ý thức có trước, vật chất có sau và ý thức quyết định vật chất.
Chủ nghĩa duy vật qua hàng nghìn năm phát triển, từ chủ nghĩa duy vật nguyên thủy cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình hiện đại và chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mác và Ph.Ăngghen sáng lập. Đây là một trường phái triết học lớn được thành lập dựa trên quan điểm rằng nguồn gốc và bản chất của mọi tồn tại trên thế giới là vật chất. Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức, còn ý thức chỉ là sự phản ánh một phần thế giới vật chất vào bộ óc con người.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng các sự vật, hiện tượng trong thế giới biểu hiện ra nhiều mặt khác nhau, nhưng đều có chung tính chất vật chất. V.I Lê-nin đã định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học, dùng để chỉ thực tại khách quan, được trao cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta sao chép, chụp ảnh và phản ánh và tồn tại độc lập với cảm giác.“[1].
Định nghĩa này có thể được hiểu theo nghĩa cơ bản sau:
Ngày thứ nhất, với tư cách là một phạm trù triết học (khác biệt với một khái niệm hoặc một phạm trù khoa học cụ thể) dùng để chỉ tất cả thực tại khách quan. Hiện thực đó biểu hiện sự tồn tại của nó dưới những hình thức đặc biệt là những sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan, ngoài ý thức con người, ngoài ý thức con người.
Hai là, Thuộc tính cơ bản và chung nhất của mọi dạng vật chất là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào cảm giác và ý thức của con người. Có thể hiểu mọi thứ tồn tại khách quan đều là vật chất.
ba là, Vật chất tồn tại khách quan thông qua những sự vật cụ thể. Khi vật chất tác động đến các giác quan, nó gây ra cảm giác. Ghi lại bằng cảm nhận của chúng tôi. Vì vậy, con người có thể hiểu thế giới. Theo nghĩa đó, vật chất phải có trên hết; cảm giác, ý thức của con người là cái cuối cùng, cái phụ thuộc vào vật chất, chỉ sự phản ánh của vật chất, là cái xuất phát từ vật chất.
Định nghĩa của Lê-nin về vật chất đã giải quyết được những vấn đề cơ bản của triết học theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mở đường cho các khoa học chuyên ngành đi sâu nghiên cứu thế giới, phát hiện ra những dạng vật chất mới, phát hiện ra những dạng vật chất mới. và cải thiện thế giới.
– Chế độ tồn tại vật chất
+ Chuyển động vật chất
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, “vận động là phương thức tồn tại của vật chất, bao gồm mọi biến đổi và mọi quá trình xảy ra trong vũ trụ từ những thay đổi đơn giản từ vị trí đến tư tưởng”.[2]. Chuyển động là thuộc tính cố hữu của vật chất nên không thể tách rời chuyển động và vật chất. Sự vận động của vật chất là vĩnh cửu. Nguồn gốc chuyển động của vật chất là tự thân vận động, do mâu thuẫn bên trong quyết định; vì sự tác động qua lại giữa các phần tử trong cùng một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
Ph. Ph.Ăngghen chia chuyển động thành 5 dạng cơ bản: chuyển động cơ học, vật lý, hóa học, sinh học và vận động xã hội. Các hình thức vận động này khác nhau về chất. Không nhập hoặc so sánh hình thức chuyển động này với hình thức chuyển động khác. Các hình thức vận động có mối quan hệ nhất định, có thể chuyển hoá cho nhau và luôn được bảo toàn. Dạng vận động cao được sinh ra từ dạng vận động thấp. Vận động xã hội là hình thức vận động cao nhất vì nó là sự vận động của chế độ xã hội thông qua các tầng lớp nhân dân. Các phong trào xã hội bao gồm tất cả các hình thức vận động khác.
Vận động là tuyệt đối, im lặng là tương đối, đó là một trong những giáo lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. Vận động là tuyệt đối vì vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất. Không có nơi nào, không có thời gian mà vật chất không có chuyển động.
Đứng yên có tính chất tương đối vì nó chỉ xảy ra với một số hình thức vận động nhất định, chỉ trong những mối quan hệ nhất định. Không có sự im lặng tương đối, không có gì có thể cụ thể và xác định, và con người không thể cảm nhận được bất cứ điều gì. Ở phần còn lại vẫn có chuyển động, vì vậy im lặng là tương đối.
Ý nghĩa của vấn đề: cung cấp cho chúng ta một cách để nhìn mọi thứ một cách tổng thể, phát triển trong các điều kiện năng động; không cứng nhắc, cố định khi hoàn cảnh đã thay đổi.
+ Không gian và thời gian
Khái niệm không gian dùng để chỉ vị trí mà các đối tượng tồn tại, hình dáng và cấu trúc của chúng; Khái niệm thời gian dùng để chỉ quá trình vận động, biến đổi của các sự vật, hiện tượng.
Không gian và thời gian là thuộc tính vốn có của vật chất nên có liên quan đến vật chất chuyển động. Vật chất chuyển động là chuyển động trong không gian và thời gian. “Các dạng tồn tại cơ bản của vật chất là không gian và thời gian. Và vật chất tồn tại bên ngoài thời gian cũng vô lý như tồn tại trong không gian”[3]. Không gian và thời gian tồn tại khách quan và vô hạn. Giới hạn không gian được xác định từ giới hạn của những thứ riêng lẻ. Tính vô hạn của thời gian được xác định bởi tính hữu hạn của các quá trình riêng lẻ. Không gian xã hội là hoạt động sống của con người trong một chế độ xã hội. Thời gian xã hội là thước đo sự thay đổi của các quá trình xã hội được đặc trưng bởi sự rối loạn vì nó phụ thuộc vào tính chất tiến bộ hay lạc hậu của hệ thống xã hội.
Ý nghĩa của vấn đề: Để hiểu đúng sự vật, hiện tượng cần có quan điểm lịch sử cụ thể, xem xét chúng trong một không gian và thời gian nhất định.
– Sự thống nhất của thế giới
Tính thống nhất của thế giới nằm ở tính vật chất của nó. Phẩm chất đó tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức. Thế giới vật chất là vô tận, vận động, thay đổi lẫn nhau. Tất cả đều là nguyên nhân, tất cả tác động lẫn nhau, tất cả mọi thứ đều là vấn đề. Mọi lĩnh vực của thế giới tự nhiên hay xã hội, dù được biểu hiện dưới những hình thức cụ thể khác nhau, đều là vật chất và có nguồn gốc vật chất; các mối quan hệ, cấu trúc và tất cả đều chịu sự chi phối của các quy luật chung và khách quan của thế giới vật chất.
Các lý thuyết khoa học tự nhiên như thuyết tiến hóa của các loài, thuyết tế bào, thuyết tiến hóa và bảo toàn năng lượng… đã chứng minh rằng các thế giới có quan hệ với nhau và tích hợp với nhau trong thế giới vật chất. Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng; Phép biện chứng duy vật, đặc biệt là chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh rằng xã hội loài người vốn sinh ra từ tự nhiên, là sự phát triển không ngừng của tự nhiên, đã khẳng định tính thống nhất của thế giới trong vật chất của con người, không chỉ trong tự nhiên mà cả xã hội.
Ý nghĩa của vấn đề: là trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, mỗi người phải phân tích, cân nhắc từ bản thân sự việc và thực tế khách quan trong mối quan hệ giữa cái cục bộ, cái riêng, cái thống nhất trong cái chỉnh thể, cái chung, không được chủ quan, kết luận.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức
Nguồn gốc và bản chất của ý thức
Theo nghĩa chung nhất, khái niệm ý thức dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần, là sự phản ánh năng động, sáng tạo hiện thực khách quan của con người, bao gồm ba yếu tố cơ bản nhất: tri thức, tình thương, tình cảm, tình cảm và ý chí con người. .
Bản chất của ý thức là phản ánh thế giới khách quan vào bộ não con người và cải tạo nó; là bức tranh chủ quan về thế giới khách quan. Do tư tưởng, tâm sinh lý, mục tiêu, yêu cầu và trạng thái chủ quan của con người khác nhau nên dù có cùng hiện thực khách quan nhưng ý thức con người có thể khác nhau.
Ý thức được sinh ra từ hai nguồn gốc: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc tự nhiên nhận thức về hai yếu tố, bộ não con người và thế giới khách quan. Do quá trình phát triển lâu dài của tự nhiên, con người có bộ não phát triển cao ra đời, từ đó ý thức ra đời. Ý thức thuộc về vật chất, nhưng không thuộc về mọi dạng vật chất, mà chỉ thuộc về một dạng vật chất có tổ chức cao nhất định là bộ não con người. Thế giới khách quan (tự nhiên, xã hội) tồn tại bên ngoài con người là đối tượng phản ánh, là nguồn gốc của ý thức tự nhiên.
Nguồn gốc xã hội nhận thức do hai yếu tố lao động và ngôn ngữ. Bộ não con người càng phát triển thì khả năng sáng tạo và chinh phục thiên nhiên càng cao. Nguồn gốc xã hội có ý nghĩa quan trọng quyết định sự ra đời của ý thức. Nguồn gốc trực tiếp cho sự ra đời của ý thức là thực tiễn hoạt động sản xuất, hoạt động xã hội và thực nghiệm khoa học.
Phản chiếu là những dấu vết của một hệ thống vật chất này trên một hệ thống vật chất khác khi chúng tương tác với nhau. Phản ánh là đặc điểm của mọi dạng vật chất thông qua các mối quan hệ, liên hệ, tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng. Đặc điểm của sự phản xạ của các dạng vô cơ có tính chất cơ, lý, hóa là thụ động, đơn giản, không có sự lựa chọn. Phản ánh dạng vật chất là động vật có hệ thần kinh thông qua hệ phản xạ.
Phản xạ ở động vật bậc cao là hình thức phản ánh tâm lý, có vui, buồn, sợ hãi… Phản xạ ở não người là phản ánh ý thức đặc biệt trong chuỗi trao đổi thông tin giữa chủ thể và khách thể. . Phản ánh có tính chủ động và sáng tạo; không hoàn toàn thích lấy và sao chép, mà có chọn lọc theo mục đích và sở thích của mọi người; có sự kết hợp giữa cảm giác và suy nghĩ, trực tiếp và gián tiếp, hiện tại và quá khứ và tương lai; Phản ánh là cụ thể và có thể khái quát.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
Vật chất quyết định ý thức: Ý thức, dù năng động hay quan trọng, cuối cùng vẫn luôn do vật chất quyết định. Vật chất là tiền đề, cơ sở, nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức. Đó là tình trạng vật chất, đó là ý thức. Khi những điều cơ bản và điều kiện vật chất thay đổi, ý thức cũng thay đổi theo. Ý thức quyết định nội dung, tính chất và khuynh hướng vận động, phát triển của ý thức.
Ý thức ảnh hưởng đến vật chất: Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, nhưng ý thức lại tác động rất lớn đến vật chất. Nhận thức giúp con người hiểu được bản chất, quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng để hình thành phương hướng, mục tiêu, phương pháp và cách thức vận dụng các phương hướng, mục tiêu đó. Nhờ nhận thức mà con người biết lựa chọn những khả năng thích hợp để khuyến khích sự phát triển của sự vật. Vai trò của ý thức đối với vật chất thực chất là vai trò của hoạt động thực tiễn của con người.
Sự trở lại của nhận thức đối với vật chất được thể hiện thông qua việc nhận thức hướng vào hoạt động thực tiễn để cải tạo tự nhiên và xã hội. Đồng thời, từ ý thức, con người xây dựng phương thức hoạt động thực tiễn nhằm cải tạo các trạng thái khách quan. Có thể nhấn mạnh rằng, nhận thức, đặc biệt là yếu tố tri thức có vai trò quyết định sự thành bại của một hoạt động thực tiễn.
Ý nghĩa của vấn đề: Để đảm bảo thành công của bất kỳ hoạt động nhận thức hay hoạt động thực tiễn nào, bao giờ cũng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng các quy luật khách quan. Đừng lấy ý kiến chủ quan của mình làm cơ sở cho suy luận và hành động, điều này dễ dẫn đến sai lầm và thất bại. Mặt khác, cần phát huy tính năng động, sáng tạo chủ quan của con người, phát huy tác động tích cực của ý thức, không trông chờ, ỷ lại vào nhận thức và hành động để cải tạo thế giới.
[1] V.I Lê-nin: Bộ hoàn chỉnh. Nhà xuất bản Tiến bộ. M. 1980. T 18. tr. 151
[2] Ph. tức giận ghen tuông: Bằng chứng tự nhiên. Nxb Sự thật, Hội thảo, 1997, tr.12
[3] C.Marx, Ph. Ăng-ghen: Chống lại Dühring, NXB Sự thật, Hà Nội, 1971, trang 88