Trong lịch sử triết học trước Mác, quan niệm về con người thực chất là quan niệm duy tâm, tôn giáo, siêu hình. Mặc dù, triết học duy vật trước Mác coi con người là thực thể tự nhiên – thực thể xã hội. Nhưng chúng cũng không nằm ngoài tính siêu hình và thậm chí là duy tâm. Bởi vì chúng đã đặc trưng hóa bản chất con người theo khuynh hướng tuyệt đối hóa các đặc điểm tự nhiên hoặc xã hội, không phụ thuộc vào vai trò của hoạt động xã hội thực tiễn.
Trong hệ thống thế giới quan tôn giáo, con người được coi là một thực thể kép, là sự kết hợp giữa tinh thần và thể chất. Nơi linh hồn con người tồn tại vĩnh hằng và tuyệt đối. Tuy nhiên, một số trường phái triết học vẫn có những thành tựu trong việc phân tích và quan sát con người, đề cao lý trí, xác lập các giá trị nhân học để hướng con người tới tự do. Chúng cũng là những tiền đề có ý nghĩa cho việc hình thành những tư tưởng về con người trong triết học Mác.
Con người – một thực thể thống nhất giữa các khía cạnh sinh học và xã hội
Tiếp thu một cách phê phán những quan điểm có lý và khắc phục những khuyết điểm hạn chế quan niệm về con người trong lịch sử triết học trước đây, triết học Mác khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa các yếu tố sinh học và xã hội. Đối với con người không phải là một cái gì đó hoàn toàn giống hệt nhau về bản chất, – nó là một bản sắc bao hàm bên trong con người sự phân biệt giữa hai yếu tố đối lập: con người với tư cách là sản phẩm của tự nhiên. Con người là thực thể xã hội được tách biệt với tư cách là những lực lượng đối lập với tự nhiên, tác động qua lại giữa các hình thái sinh học và xã hội của con người.
Ngày thứ nhất, Con người là sản phẩm của lịch sử tự nhiên. Đó là quá trình tạo ra các khía cạnh sinh học và khả năng thực hiện các nhu cầu sinh học như: thức ăn, quần áo, nơi ở; các hoạt động và nhu cầu sinh sản của con người. Vì vậy, con người trước hết là một sinh vật sinh học, con người tự nhiên là con người có đầy đủ các đặc điểm sinh học và giống loài. Yếu tố sinh học ở người, trước hết là tổ chức cơ thể và mối quan hệ của nó với tự nhiên, là những thuộc tính, đặc điểm sinh học, các quá trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau của cơ thể, bản chất sinh học của cá nhân con người.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quyết định bản chất con người. Đặc điểm để phân biệt con người với giới động vật là khía cạnh xã hội, là quá trình lao động của con người.
Thứ hai, Con người cũng là sản phẩm của lịch sử xã hội và bản thân lao động là nhân tố quyết định quá trình hình thành con người, điều này khẳng định con người có bản lĩnh xã hội. Trong lịch sử triết học trước Mác, có nhiều quan niệm khác nhau phân biệt con người với thế giới động vật, chẳng hạn như con người là động vật biết sử dụng công cụ lao động, hay con người biết suy nghĩ, v.v. Tuy nhiên, khái niệm cũng chỉ nhấn mạnh một khía cạnh nhất định của bản chất xã hội loài người.
Thông qua sản xuất vật chất, con người đã cải tạo và biến đổi toàn bộ tự nhiên: “động vật chỉ sinh sản chính mình, và con người tái tạo toàn bộ thiên nhiên.” . Tính xã hội của con người được biểu hiện ở hoạt động sản xuất vật chất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần để phục vụ cuộc sống, hình thành và phát triển ngôn ngữ, tư duy, xác lập các mối quan hệ xã hội, các hệ thống xã hội
Thứ ba, mối quan hệ giữa các mặt sinh học và xã hội, không chỉ khẳng định nguồn gốc, bản chất sinh học và xã hội của con người; mà còn nhấn mạnh vai trò quyết định của hệ thống pháp luật khách quan đối với quá trình hình thành và phát triển của con người. Nó là một hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật môi trường, quy luật chuyển hóa, di truyền, biến dị, tiến hóa, … chi phối các khía cạnh sinh học của con người. Hệ thống quy phạm pháp luật tâm lý, ý thức hình thành sự vận động trên cơ sở sinh học của con người như hình thành tình cảm, nguyện vọng, niềm tin, ý chí,… .Hệ thống pháp luật xã hội điều chỉnh hệ thống xã hội giữa con người với con người.
Ba hệ thống pháp luật trên phối hợp với nhau, tạo nên một chỉnh thể thống nhất trong đời sống con người, bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Bởi vì, con người chỉ có thể tồn tại khi thực hiện được các nhu cầu sinh học của mình, không có sản phẩm vật chất nào có sẵn trong tự nhiên mà chủ yếu là do quá trình sáng tạo của con người thông qua lao động của con người. Xã hội không phải là một thực thể tồn tại độc lập bên ngoài sinh học, xã hội và sinh học thuần túy cũng không tồn tại độc lập với nhau, chúng có mối quan hệ biện chứng và tác động lẫn nhau về mặt xã hội. Vì xã hội là phương thức để con người thực hiện tốt hơn những nhu cầu sinh học ngày càng hợp lý và văn minh. Vì vậy, con người ngày càng quan tâm đến quá trình cải tạo hiện thực khách quan, cũng như lợi ích của cá nhân, nhóm, giai cấp hay toàn xã hội chứ không phải do ý thức chủ quan của mình mà do điều kiện khách quan và quy luật khách quan quyết định.
Trong thực tế, bản chất con người là tổng thể các mối quan hệ xã hội.
Con người khác với vương quốc động vật ở ba điểm: Mối quan hệ với tự nhiên, mối quan hệ với xã hội, mối quan hệ với bản thân. Sự khác nhau đó cho thấy con người là thể thống nhất giữa các mặt sinh học và xã hội hay bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Bởi vì, ba mối quan hệ suy cho cùng là mối quan hệ xã hội giữa con người với con người, là mối quan hệ bản chất bao gồm tất cả các mối quan hệ khác của con người.
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, Marx đã nêu ra Luận điểm nổi tiếng về Feuerbach: “Bản chất con người không phải là cái trừu tượng gắn liền với cá nhân. Trong thực tế, bản chất con người là tổng thể các mối quan hệ xã hội.
Luận điểm trên khẳng định không có con người trừu tượng, không tồn tại trong điều kiện, hoàn cảnh lịch sử – xã hội. Con người là vật thể cụ thể, sống trong những điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Trong những điều kiện lịch sử nhất định, bằng hoạt động thực tiễn, con người sản sinh ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển về thể chất và tinh thần. Chỉ trong mọi quan hệ xã hội như gia đình, giai cấp, dân tộc,… con người mới thể hiện được bản chất xã hội của mình.
Cần lưu ý rằng, luận điểm trên khẳng định bản chất xã hội, không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên của đời sống con người; trái lại, ông muốn nhấn mạnh những điểm khác biệt giữa con người và giới động vật về bản chất xã hội và cũng để nêu ra những thiếu sót của các nhà triết học trước Mác về bản chất xã hội của con người. Mặt khác, những gì thiết yếu với ý nghĩa là phổ quát, có tính quy luật, không phải là duy nhất; Vì vậy, cần nhìn vào những biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân trong cộng đồng xã hội
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
Con người là sản phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và quá trình phát triển lịch sử của xã hội. Tuy nhiên, điều quan trọng là con người luôn là chủ thể của lịch sử xã hội. Với tính chủ quan của lịch sử, thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm thay đổi tự nhiên, xã hội và chính mình.
Trong quá trình biến đổi của tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Sản xuất vật chất là điều kiện tồn tại của con người và là phương thức dẫn đến sự biến đổi xã hội. Là quá trình con người hiểu và vận dụng các quy luật khách quan để khẳng định rằng lịch sử vận động và phát triển xã hội là lịch sử phát triển của các phương thức sản xuất vật chất, v.v.
Không có con người trừu tượng, con người là cụ thể trong mọi giai đoạn phát triển cụ thể của lịch sử, và bản chất con người thực chất là tổng hòa các quan hệ xã hội. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng, mà là một hệ thống mở, phù hợp với điều kiện lịch sử của loài người. Vì vậy, có thể nói, sự vận động và phát triển của lịch sử sẽ đồng hành với sự vận động và phát triển của bản chất con người thông qua các quan hệ xã hội trong lịch sử.